1. Lời dẫn
Vào năm ngoái, với niềm đam mê du lịch và say mê di sản Huế, các bạn trẻ nhóm Journeys in Hue đã tổ chức tour “Hành trình Nam Phương: Đám cưới Hoàng gia” nhân dịp Kỷ niệm 90 năm ngày cưới của vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương (1934 - 2024). Để thiết kế các địa điểm tham quan trong chuyến hành trình, các bạn đã hỏi tôi thông tin về lầu Công quán: Nơi hoàng hậu Nam Phương đã từng ở trong khi chờ ngày tổ chức lễ đại hôn mà báo chí đã từng nhắc đến trên các bản tin đăng vào năm 1934. Sau đó, tôi tập trung nghiên cứu tìm hiểu về địa danh lầu Công quán và cũng đã đọc được thông tin trên sách báo viết địa điểm này chính là Trường Hậu bổ xưa. Bằng việc đi tìm lại lầu Công quán qua nguồn tư liệu báo chí và kết quả nghiên cứu điền dã, chúng tôi mong muốn góp thêm những cứ liệu cụ thể nhằm xác định vị trí một cách chính xác để tránh sự nhầm lẫn về địa danh lịch sử này.
2. Từ thông tin báo chí đương thời…
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, đám cưới của vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương không chỉ là sự kiện trọng đại của hoàng gia mà còn thu hút sự chú ý của người dân cả nước lúc bấy giờ. Bởi đây là lần đầu tiên, triều Nguyễn có một vị vua lập hậu ngay sau lễ đại hôn của chính mình. Trong cuốn hồi ký Le Dragon d’Annam (Con rồng An Nam), cựu hoàng Bảo Đại đã từng viết: “Ngày cưới là ngày 20 tháng 3 năm 1934. Đám cưới được cử hành trước triều đình và các đại diện của Pháp. Đó là một vấn đề mới mẻ, vì từ xưa đến nay chưa bao giờ như vậy. Tôi cũng có quyết định tấn phong cho vợ tôi, tước hiệu là Hoàng hậu, sau khi cưới, điều mà từ xưa, mẫu thân tôi chỉ được phong, sau khi phụ hoàng đã chết. Tôi tấn phong cho vợ tôi là Nam Phương Hoàng hậu, có nghĩa là hương thơm của miền Nam, đồng thời cũng theo một sắc dụ, tôi cho phép Hoàng hậu được mặc áo màu vàng da cam, vốn chỉ dành riêng cho Hoàng đế”1. Vì vậy, lần giở lại những trang báo xưa có thể thấy lễ đại hôn này được báo chí lúc ấy theo dõi rất sát sao.
![]() |
Cảnh đón dâu từ lầu Công quán đến Đại Nội. Nguồn: báo Le Monde Colonial |
Hà Thành ngọ báo số 1964 ra ngày 23/3/1934, đăng tin cho biết vào lúc “9 giờ sáng 20 Mars, các bà phủ thiếp, mệnh phụ bận triều phục đều tựu tại lầu Công quán rước Hoàng hậu vào Đại Nội. Lễ này, gọi là lễ “Tấn nội đình” đã cử hành một cách cực kỳ long trọng. Từ năm Đồng Khánh nguyên niên đến nay có 5 lễ Tấn nội đình, trừ ra lễ Tấn cung của lệnh ái ngài Quốc công Nguyễn Hữu Độ (hiện nay là Ngài Khôn Nguyên Thái Hoàng Thái hậu), chớ không có lễ nào nghiêm và người đi xem đông như lễ hôm nay. Trời vừa sáng thì quang cảnh Hoàng thành đã có vẻ náo nhiệt lạ thường, vì nhân dân từ thôn quê cho đến khách trú các phường đâu đâu cũng kéo tới Hậu bổ. Từ Khải hoàn môn lầu Công quán đến cửa Chương Đức đâu đâu cũng tấp nập người đi xem. Trên các nhành cây cao, trên các bức tường thành Hậu bổ, trẻ con, người lớn tranh nhau kiếm chỗ cao để thấy rõ dung nhan người sẽ làm Hoàng hậu nước Nam.
6 giờ 30, cửa sắt lầu Công quán mở rộng, để quan Hộ thành Đề đốc đem tuần binh tới giữ trật tự. Các bà Tùng sự ở Đại Nội ra, vào lầu Công quán, trang điểm cho Hoàng hậu. 8 giờ, các bà phủ thiếp, mệnh phụ, đầu chít khăn xanh, mình bận áo tràng thêu đều lần lượt tề tựu tại công quán. Trong các bà đi rước Hoàng hậu người ta thấy: Bà Hoài Ân Vương phi, các bà Thượng Thái Văn Toản, Tôn Thất Quảng, bà Kiêm nhiếp Tôn Nhơn phủ Ưng Bàng, các bà Đô thống, Tham tri, Thị lang các bộ... Khi các bà mệnh phụ đến, có nữ quan ra tiếp tại thềm và mời vào lầu. 8 giờ 15, quan Thượng thư bộ Lễ nghi cùng các quan bộ Lễ tới lầu Công quán để kiểm đốc các nghi lễ. 8 giờ 45, ở Đại Nội đem xe hơi Tanbard của Hoàng đế ra lầu Công quán để đón Hoàng hậu. Bộ Lễ vào trình giờ lễ Tấn nội đình và truyền lệnh sắp sửa phát pháo. Các bà mệnh phụ mời H.H. sửa soạn nhập cung. 9 giờ đúng, H.H. mình mặc áo tràng gấm đỏ thêu, đầu bịt khăn xanh, chân đi giầy thêu phụng, ra khỏi lầu Công quán. Theo sau có bà Nguyễn Hữu Hào và bà Didelot bận áo tràng, bịt khăn xanh. Kế đó là các bà phủ thiếp, Thượng thư. Pháo nổ liên thanh, đạo binh dẫn sẵn trước cửa bắt đầu cử động. Đi tiên phong có quan Hộ thành Đề đốc Nguyễn Văn Mậu, mình mặc nhung y võ phục cưỡi ngựa. Theo bên ngựa có quân cầm gươm theo hầu. Kế đến mấy mươi người lính bận y phục Đại Nội cầm cờ, cầm trượng đi hầu. Gần đạo quân này là xe hơi của bà Nguyễn Hữu Hào và bà Didelot, rồi đến xe Hoàng hậu, xe này là xe của Hoàng đế, chỉ có một mình H.H. ngồi. Hầu xe này có hai người thị vệ lái xe bận y phục thêu vành rế vàng. Theo hầu xe này có một hàng xe trên mười mấy cái, có các bà mệnh phụ ngồi. Theo các đường có cắm cờ Hoàng hiệu, đạo binh từ từ tiến thẳng tới cửa Chương Đức”2.
Tiếp đó, Nam Phong tạp chí còn cho hay: “Hoàng thân Bửu Liêm cùng phủ thiếp và Hoàng tùng đệ vào Lăng Cô đón Hoàng hậu rước về Kinh đô. Khi tới cung Trú tất ở Kinh đô, Hoàng hậu trú ở cung ấy suốt ngày mồng 3, 4 và 5 tháng 2 (17, 18 và 19 Mars). 9 giờ sáng ngày 6 tháng 2 (20 Mars), đón Hoàng hậu vào Đại Nội. Khi ở cung Trú tất khởi hành, Hoàng hậu đội khăn thiên thanh, mặc áo thụng thêu đỏ, có các bà phủ thiếp, các công chúa, các bà mệnh phụ đều thịnh phục đến đón Hoàng hậu vào Đại Nội. Có bốn lộng đỏ, mười lá cờ đứng dàn trước cung Trú tất. Hoàng hậu và quý quyến ngồi trên chiếc ô tô đi giữa các ô tô khác. Quan Đề đốc Hộ thành mặc binh phục, cưỡi ngựa, có các toán lính đi theo để hộ vệ đám rước từ cung Trú tất đến cửa Chương Đức”3.
![]() |
Vị trí địa điểm Hậu bổ được đóng khung đỏ trên bản đồ Kinh thành Huế |
![]() |
Định vị địa điểm lầu Ông Hoàng tùng đệ trên Google Maps |
Qua những thông tin, hình ảnh trong các bài viết đăng trên Hà Thành ngọ báo và Nam Phong tạp chí, báo Le Monde Colonial (Thế giới thuộc địa) nêu trên chúng ta có thể nhận thấy vị trí tọa lạc, kiến trúc lầu Công quán (còn có tên gọi khác là cung Trú tất hoặc lầu Trú khách4) có một số đặc điểm cụ thể như sau:
- Ở bên trong Kinh thành Huế.
- Nằm gần địa danh có tên gọi là Hậu bổ.
- Kết cấu nhà 2 tầng theo kiểu kiến trúc thuộc địa.
Qua những dữ liệu quan trọng này, chúng tôi cho rằng thông tin lầu Công quán chính là Trường Hậu bổ xưa (nay tọa lạc tại địa chỉ số 75 Trần Hưng Đạo, phường Đông Ba, quận Phú Xuân, thành phố Huế) đã được công bố trên các sách báo trong thời gian vừa qua hoàn toàn chưa có cơ sở và chưa mang tính thuyết phục.
3… đến việc giải mã qua nghiên cứu khảo sát thực địa
Từ những thông tin quý và đáng tin cậy về lầu Công quán như tọa lạc ở bên trong Kinh thành, gần địa danh Hậu bổ và có kết cấu nhà 2 tầng theo phong cách kiến trúc thuộc địa, chúng tôi đã tập trung nghiên cứu các tài liệu, bản đồ cổ về Kinh thành Huế. Rất tiếc, chúng tôi không tìm thấy bất kỳ thông tin nào về lầu Công quán nhưng đã tìm thấy có một địa danh mang tên “Hậu bổ” nằm ở phía bắc Hoàng thành, liền kề với cửa Hòa Bình (cửa Bắc của Hoàng thành). Đặc biệt là công trình nghiên cứu “Địa danh Kinh thành Huế” của học giả L. Cadière đăng trên tập san Những người bạn Cố đô Huế (BAVH) đã ghi rõ các địa điểm tọa lạc ở các phường thuộc khu vực Kinh thành vào năm 1933, trong đó có định số “155. Hậu bổ” thuộc địa giới phường Huệ An trên bản đồ với nội dung ghi: “Có nghĩa “Công viên phía sau”, nằm phía sau cung điện. Vườn được nhắc đến trong nhiều đồ bản trong “Tuyển tập đồ bản Kinh thành Huế” của H. Cosserat, dưới một số tên gọi như “nơi vua chơi” (Đồ bản 2, 2bis); “Hậu bổ, đi dạo” (Đồ bản 3, số 12); “nơi giải trí của vua” (Đồ bản 7, 8 số 106, 106bis)”5.
Từ đó, chúng tôi bước đầu nhận định lầu Công quán được xây dựng sau năm 1933. Vì vậy, địa danh này không được đề cập trong nội dung chuyên khảo “Địa danh Kinh thành Huế” của học giả L. Cadière.
![]() |
![]() |
Một góc lầu Công quán xưa và nay |
Căn cứ vào tấm bản đồ Kinh thành Huế, chúng tôi đã dành nhiều thời gian nghiên cứu khảo sát thực địa xung quanh vùng Hậu bổ xưa. Cuối cùng, chúng tôi đã phát hiện một công trình hai tầng được xây dựng theo kiến trúc thuộc địa nằm khá gần khu vực Hậu bổ. Đó chính là trụ sở Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế tọa lạc tại địa chỉ số 23 Nhật Lệ, phường Đông Ba, quận Phú Xuân, thành phố Huế.
Qua đối sánh với những bức ảnh tư liệu được phóng viên báo Le Monde Colonial (Thế giới thuộc địa) chụp trong đám cưới của vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương vào năm 1934, chúng tôi nhận thấy kiến trúc ngôi nhà có nhiều điểm tương đồng nhau.
Dò hỏi các vị cao niên sống xung quanh trụ sở Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế cho biết công trình này trước đây có tên gọi là lầu Ông Hoàng tùng đệ và đã trải qua nhiều lần cải tạo, tu sửa để phục vụ nhiều chức năng khác nhau. Vì vậy, nhiều chi tiết kiến trúc gốc của ngôi nhà đã bị thay đổi như mở thêm cửa chính ở phía trước, xây thêm ban công mặt tiền và hội trường ở phía sau nhà. Ngoài ra hệ thống phòng ốc, sàn gỗ, nền gạch bông, họa tiết trang trí cũng đã bị thay thế bằng chất liệu và kiểu dáng mới.
Vậy nhân vật Ông Hoàng tùng đệ là ai? Qua nghiên cứu tìm hiểu, chúng tôi được biết đó là ngài Vĩnh Cẩn thuộc phủ Kiên Thái Vương.
Vĩnh Cẩn sinh năm 1914 ở làng Dương Phẩm, là con trai của Kiên Hương hầu Bửu Phong6. Ông kết hôn với bà Nguyễn Hữu Bích Tiên, con gái của Tân Phong Công chúa Châu Hoàn và Nguyễn Hữu Khâm (con trai của Vĩnh Quốc công Nguyễn Hữu Độ). Năm Khải Định thứ 7 [1922], Hoàng thái tử Vĩnh Thụy (sau này là vua Bảo Đại) sang Pháp du học. Với thân phận là em họ của Hoàng thái tử, ông được lựa chọn đi theo tháp tùng; do vậy thường được xưng là Hoàng tùng đệ. Đến năm 1932, sau khi vua Bảo Đại hoàn thành quá trình du học ở Pháp, ông tháp tùng nhà vua về nước nắm quyền chấp chính (1932 - 1945). Trong thời gian này, Hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn là người bạn tâm giao của vua Bảo Đại và cũng là người được nhà vua tin tưởng giao nhiều trọng trách nhất.
Năm Bảo Đại thứ 8 [1933], Vĩnh Cẩn được triều đình phong hàm Hồng lô Tự khanh. Đến năm Bảo Đại thứ 11 [1936], ông đến nhậm chức ở bộ Tài chính. Sang năm (1937), Vĩnh Cẩn được vua Bảo Đại bổ nhiệm vào làm việc tại Ngự tiền Văn phòng, cơ quan thay thế cho Nội các được thành lập dưới triều vua Minh Mạng. Năm Bảo Đại thứ 17 [1942], ông được triều đình thăng hàm Chánh Tam phẩm. Sau ngày triều Nguyễn cáo chung (1945), lai lịch của Hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn ít người biết đến.
![]() |
Chân dung Hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn |
![]() |
Lầu Ông Hoàng tùng đệ mang phong cách kiến trúc thuộc địa |
Quay trở lại lầu Công quán, dựa trên nguồn tư liệu báo chí và quá trình khảo sát điền dã chúng tôi phán đoán rằng công trình này được xây dựng vào cuối năm 1933 đến đầu năm 1934. Cùng khoảng thời gian triều đình cho sửa sang lại điện Kiến Trung nằm bên trong Tử Cấm thành. Phóng viên Hà Thành ngọ báo cho biết thêm thông tin: “Trước kia, các bà Hoàng quý phi và phi tần đều ở chỗ riêng chớ không ở một nhà cùng các bậc Hoàng đế. Thường có ba cung sáu viện. Nay đức Bảo Đại bỏ hẳn lối cũ, Ngài định để Hoàng hậu ngự tại điện Kiến Trung. Điện này, bộ Công tác sửa chữa mấy tháng nay nhiều công phu lắm, nay mới xong. Cách sắp đặt tối tân, theo lối các điện bên Pháp”7. Mục đích xây dựng lầu Công quán để phục vụ làm nơi ở và sinh hoạt cho Nam Phương hoàng hậu cùng gia đình trong khoảng thời gian diễn ra lễ đại hôn của vua Bảo Đại và lễ tấn phong hoàng hậu. Ngoài ra, vị trí lầu Công quán nằm khá gần Đại Nội, phủ Tôn Nhơn và các cơ quan quan trọng của chính phủ Nam triều nên rất thuận lợi cho việc đón tiếp, đi lại và tổ chức các nghi lễ đám cưới.
Sau ngày cưới, hoàng hậu Nam Phương chuyển đến sống tại điện Kiến Trung cùng với vua Bảo Đại. Do vậy, lầu Công quán được giao lại cho Hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn và gia đình sinh sống. Bởi cơ ngơi này nằm khá gần tòa nhà Ngự tiền Văn phòng, nơi Vĩnh Cẩn hiện đang công tác. Từ đó, lầu Công quán được người dân sống xung quanh gọi là lầu Ông Hoàng tùng đệ8.
Để đảm bảo về tính chính xác và độ tin cậy của thông tin lầu Ông Hoàng tùng đệ (tức lầu Công quán xưa) là nơi Nam Phương hoàng hậu từng ở trước khi nhập cung, chúng tôi đã tìm về phủ Kiên Thái Vương bên dòng sông An Cựu để mong tìm được tư liệu mới. May mắn thay, tôi đã gặp được ông Nguyễn Như Trị9, ông Hoàng Trọng Thí10 hiện đang gìn giữ, quản lý phủ thờ Kiên Thái Vương. Sau cuộc trò chuyện và xem lại những bức ảnh lầu Ông Hoàng tùng đệ xưa và nay, cả hai ông đều khẳng định rằng bản thân đã từng đến thăm ngôi nhà này ở Thành nội vài lần và đã nghe cha mẹ mình nhắc đến câu chuyện rước dâu Nam Phương hoàng hậu từ lầu Ông Hoàng tùng đệ vào Đại Nội.
4. Thay lời kết
Có thể nói, không có điều gì phải hoài nghi nữa, lầu Công quán: Nơi hoàng hậu Nam Phương đã từng ở trong khi chờ ngày lễ đại hôn vào năm 1934 chính là lầu Ông Hoàng tùng đệ ở Thành nội (nay là trụ sở Nhà hát Nghệ thuật Ca Kịch Huế). Sau gần 1 thế kỷ tồn tại, lầu Công quán - lầu Ông Hoàng tùng đệ tuy đã thay đổi nhiều so với kiến trúc xưa nhưng nó vẫn lưu giữ nhiều câu chuyện văn hóa lịch sử gắn liền với một số nhân vật lịch sử như Nam Phương hoàng hậu, Hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn… Thiết nghĩ trong tương lai nếu dự án xây dựng Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế được triển khai thực hiện thì chính quyền địa phương cần có giải pháp gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị kiến trúc lầu Ông Hoàng tùng đệ trở thành không gian văn hóa, phục vụ phát triển du lịch.
T.V.D
(TCSH434/04-2025)
------------------------
1 Bảo Đại (1990), Con rồng Việt Nam, Nguyễn Phước Tộc xuất bản, tr. 99.
2 Hà Thành ngọ báo (1934), “Các bà phủ thiếp, mệnh phụ Nam triều đến lầu Công quán rước Hoàng hậu vào Đại Nội”, Hà Thành ngọ báo, Số 1964, (ra ngày 23/3/1934), Hà Nội, tr.1.
3 Nam Phong tạp chí (1934), “Các nghi lễ đại hội và tấn phong Hoàng hậu”, Nam Phong tạp chí, số 193, Hà Nội, tr. 222.
4 Hà Thành ngọ báo (1934), “Tin kinh đô: Hoàng thượng làm lễ sáo yết tại điện Phụng Tiên”, Hà Thành ngọ báo, số 1960 (ra ngày 18/3/1934), Hà Nội, tr. 1.
5 Henri Cosserat và Léopold Michel Cadière (2023), Tuyển tập bản đồ và địa đanh Kinh thành Huế, Phùng Đức Trung dịch, Võ Nguyên Phong chú giải, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 212.
6 Bửu Phong là con trai của Kiên Quận công Ưng Quyến với bà Nguyễn Hữu Thị Uyển (con gái của Vĩnh Quốc công Nguyễn Hữu Độ), và là cháu nội của Kiên Thái Vương Hồng Cai. Ông được triều đình tập phong tước Kiên Hương hầu, ra làm quan mang hàm Hiệp tá Đại học sĩ, chức Tả Tôn khanh Tôn Nhơn phủ.
7 Hà Thành ngọ báo (1934), “Hoàng hậu sẽ ngự tại Kiến Trung”, Hà Thành ngọ báo, Số 1960 (ra ngày 18/3/1934), Hà Nội, tr. 1.
8 Về sau, lầu Ông Hoàng tùng đệ được trưng dụng làm trụ sở ty An ninh Quân đội, rồi đồn Quân cảnh Tư pháp dưới thời chế độ cũ. Sau năm 1975 tiếp tục được dùng làm trụ sở của các đơn vị hoạt động nghệ thuật truyền thống và nay là trụ sở của Nhà hát Nghệ thuật Ca Kịch Huế.
9 Ông Nguyễn Như Trị (sinh năm 1943) có thân mẫu là bà Lê Thị Dinh (cháu ngoại của Quận Công Ưng Quyến).
10 Ông Hoàng Trọng Thí (sinh năm 1945) có thân phụ là ông Hoàng Trọng Hòa (người trong họ với Đức Từ Cung).
LTS: Đêm 30/8 vừa qua, tại Huế, Hội đồng toàn quốc họ Phạm Việt Nam tổ chức giới thiệu cuốn sách “Phạm Quỳnh - Một góc nhìn”, tập 2 do nhà sử học Nguyễn Văn Khoan biên soạn. Nhiều nhà nghiên cứu, nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi của Huế đã đến dự và phát biểu ý kiến.
BÙI KIM CHI
“Giữ chút gì rất Huế đi em
Nét duyên là trời đất giao hòa
Dẫu xa một thời anh gặp lại
Vẫn được nhìn em say lá hoa.
(...)
CHU SƠN
1.
Này, xa là những cảm nhận chủ quan hàm chứa một góc nhìn giới hạn, tương đối và hoàn toàn xa lạ với những khẩu hiệu thời thượng là vĩnh cửu, muôn năm.
TRẦN VĂN DŨNG
Cùng với rất nhiều nghề thủ công truyền thống trên đất nước Việt Nam, nghề Kim hoàn được biết đến với sự sáng lập của hai vị tổ sư Cao Đình Độ và Cao Đình Hương ngay trên vùng đất Cố đô. Tài năng của các ông đã biến nghề kim hoàn trở thành một nghề thủ công độc đáo, mang đậm sắc thái Việt và được truyền bá khắp ba miền đất nước trong hơn hai thế kỉ qua.
LÊ VĂN LÂN
Hằng năm cứ vào dịp 9/1 (ngày sinh viên học sinh), ngày 26/3 (ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và giải phóng Huế), những người hoạt động trong phong trào (người ta thường gọi là “dân phong trào”) lại họp mặt tưởng nhớ những người hi sinh, ôn lại truyền thống, chia sẻ những trăn trở trước thời cuộc và tự dặn mình phải sống xứng đáng với những người đã khuất, những đùm bọc thương yêu mà nhân dân đã dành cho mình.
ĐÀO HÙNG
(Nhân kỷ niệm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam)
Hồi còn bé, đôi lần tôi được cha tôi là ông Đào Duy Anh, đưa đi chơi và có ghé thăm cụ Huỳnh Thúc Kháng. Rồi cũng có lần tôi thấy cụ Huỳnh đến gặp cha tôi ở ngôi nhà trên đường Hương Mỹ (nay là Chu Văn An), thành phố Huế.
LÊ MẬU PHÚ
Tùy bút
Sông Hương bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chạy dài hơn 60 cây số, qua nhiều rừng núi với thảm thực vật nhiệt đới đa dạng và nhận nhiều nguồn nước từ những con thác, rồi sau đó hợp lưu tại ngã ba Bằng Lãng thành một dòng sông, gọi là sông Hương. Từ đó, sông xuôi về biển thêm 30 cây số nữa.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
“Ơi khách đường xa, khách đường xa
Dừng chân ghé lại Đông Ba chợ mình”
TRẦN NGUYÊN SỸ
Ghi chép
Chúng ta thử hình dung Huế như một ngôi nhà cổ, mà con ngõ đón thập khách phía Nam là đoạn quốc lộ từ Thủy Dương xuống Phú Bài thì khỏi cần trả lời câu hỏi: Với Huế, Hương Thủy có quan trọng không?
HỮU THU - BẢO HÂN
Không ít người ở Huế thế hệ sinh năm 1950 đã từng được ngắm cái điệu đà của rong rêu, sự bỡn đùa của từng đàn cá tung tăng theo chiều con nước sông Hương.
PHAN THUẬN AN
Thái giám hay hoạn quan là những người đàn ông không có sinh thực khí, chuyên ở hầu hạ trong hậu cung của vua.
HỮU THU & BẢO HÂN
Đường 12 được giới hạn từ ngã ba Tuần lên Bốt Đỏ. Chỉ kéo dài hơn 50 cây số nhưng đây là quãng đường không dễ vượt qua, bởi trước năm 1990, muốn lên A Lưới, từ Huế xe phải chuyển hướng ra Đông Hà, ngược đường 9, đến cầu Đakrong rẽ trái rồi men theo đường Hồ Chí Minh để vào. Thuở đó, đường xa, xe xấu nên cán bộ được phân công lên huyện vùng cao này ai cũng ái ngại và bỏ cuộc.
BÙI KIM CHI Tiên tổ phương danh lưu quốc sử Tử tôn tích đức kế gia phong
PHAN HƯƠNG THỦY Hệ thống lăng tẩm và Cung điện ở Huế luôn luôn là một đối tượng chính của các nhà nghiên cứu Mỹ thuật, và các nhà nghiên cứu lịch sử Huế đã để lại cho chúng ta những cái mà thời trước không còn.
Một số anh chị em ở Huế biết tôi có ghi chép được ít nhiều về Nguyễn Tuân, bảo tôi viết lại và gửi cho Tạp chí Sông Hương. Riêng tôi, muốn tạo một dịp để anh Nguyễn nói trực tiếp với bạn đọc Sông Hương, nên xin được hỏi anh Nguyễn chung quanh chuyện Huế, được anh Nguyễn nhận lời, tôi xin trung thành ghi lại toàn bộ cuộc trò chuyện đó.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANGHiếm nơi nào trên đất Huế có phong thủy hữu tình, trời, đất, nước, người cùng quyện hòa thanh thái trong một không gian xanh ngát xanh như đất thôn Vỹ. Đất này được dòng Hương Giang và phụ lưu Như Ý ôm trọn vào lòng như hai cánh tay của một người mẹ vỗ về.
TRẦN THÙY MAI Tôi sinh ra và lớn lên ở Huế. Với tất cả mọi người, ai cũng thế, sau quê hương lớn là Tổ quốc Việt Nam, đều yêu và đều thích nói về quê hương nho nhỏ của mình, nơi đón tiếp mình từ lòng mẹ và cho mình những ấn tượng đầu tiên về thế giới. Hơn nữa, đó lại là một vùng đất hay được nhắc nhở và ngợi khen.
ĐỖ NAM Hàng trăm năm nay ai cũng biết đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có 02 cửa thông ra biển: Thuận An và Tư Hiền.
BÙI MINH ĐỨC (Tiếp theo Sông Hương số 267, tháng 5 - 2011)
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC(Kỷ niệm 95 năm ngày mất Thái Phiên - Trần Cao Vân: 17.5.1916 - 17.5.2011) Bút ký