Tình yêu đích thực

16:59 16/05/2008
“Chính anh đã cho em biết tình yêu là gì”.      Herman Hesse

Cecile và tôi là bạn của nhau từ hồi học đại học, đến nay cũng được hơn ba mươi năm rồi. Dù sống xa nhau nhưng ngay từ lần gặp đầu tiên, tình bạn của chúng tôi đã bền chặt. Chúng tôi tìm đến nhau khi có những chuyện cưới xin, sinh đẻ, chia ly hay tang tóc của người thân, những lúc mà ta thật sự cần một người bạn.
Nhân dịp kỷ niệm tình thân hữu và lần sinh nhật thứ năm mươi của chúng tôi, Cecile và tôi cùng tổ chức một chuyến du lịch. Chúng tôi lái xe từ nhà tôi ở bang Texas đến bang California và trở về. Một chuyến đi mới tuyệt vời làm sao!
Ngày đầu tiên của chuyến du lịch kết thúc ở bang Santa Fe, Tân . Sau chuyến đi dài, chúng tôi đều mệt nhừ nên quyết định đến ăn tối ở một quán ăn gần khách sạn. Chọn một chỗ khá yên tĩnh, chỉ có vài người khách, chúng tôi gọi thức ăn và ngồi ôn lại chuyện ngày hôm đó. Vừa trò chuyện, tôi vừa liếc nhìn mọi người trong phòng. Tôi để ý đến một đôi bạn già ngồi gần chúng tôi. Người đàn ông khá cao có dáng vẻ thể thao với mái tóc bạc và làn da sạm nắng. Người đàn bà ngồi kế bên ông nhỏ nhắn, ăn mặc rất đẹp và trông rất đáng yêu. Cái vẻ ngưỡng mộ trên khuôn mặt người đàn bà khiến tôi chú ý ngay lập tức. Bà ngồi tựa nhẹ cằm lên tay và nhìn chăm chú vào mặt người đàn ông khi ông nói. Bà khiến tôi nhớ đến những cô cậu thiếu niên đang yêu. Tôi chỉ cho Cecile cặp đó. Khi chúng tôi đang nhìn, ông quay qua hôn nhẹ lên cằm bà. Bà mỉm cười.
“Đó mới đích thực là tình yêu!”. Tôi thở dài nói “Chắc họ lấy nhau đã lâu rồi. Họ trông yêu nhau thắm thiết quá”
“Cũng có thể”. Cecile nhận xét “Họ đã không gặp nhau trong một thời gian dài. Có thể họ mới yêu nhau thôi.”
“Ồ, dù sao đi nữa, họ cũng rất quan tâm đến nhau đấy thôi. Họ đang yêu.”
Cecile và tôi nhìn trộm và lắng nghe cuộc chuyện trò giữa họ. Ông giải thích cho bà về một vụ đầu tư kinh doanh mới mà ông đang định thực hiện và hỏi ý kiến bà. Bà mỉm cười và đồng ý mọi điều ông nói. Khi người hầu bàn mang thực đơn đến cho họ, ông chọn món cho bà, nhắc bà về món thịt bê ưa thích của bà. Trong khi trò chuyện, ông mân mê tay bà còn bà thì lắng nghe như nuốt từng lời ông nói. Cải cảnh cảm động ấy đã làm chúng tôi ngẩn cả người.
Nhưng rồi cảnh trí ấy đã thay đổi. Một vẻ nhìn hoang mang thoáng qua khuôn mặt đẹp điểm vài nếp nhăn ấy. Bà nhìn vào người đàn ông và nói bằng một giọng dịu dàng “Tôi có biết ông à? Đây là đâu? Chúng ta đang ở đâu đây?”
“Em yêu, em có biết anh mà. Anh là Ralph, chồng em đây mà. Chúng ta đang ở bang Santa Fe . Ngày mai, mình sẽ đến gặp con trai của chúng ta ở bang Missouri . Em không nhớ gì sao?”
“Ồ, em không biết nữa. Dường như em không còn nhớ gì cả ”. Bà nói trầm tĩnh.
“Ổn cả thôi, em yêu. Em không sao đâu. Em ăn tối đi rồi chúng ta đi nghỉ.”. Ông vuốt ve cằm bà “ Tối nay em rất đẹp”.
Khi tôi quay nhìn Cecile, mặt chúng tôi đều ướt đẫm “Chúng ta đã đúng.” Cecile nói lặng lẽ “Đó mới đúng là tình yêu đích thực”.
NGUYỄN THỊ HỒNG MINH dịch

Frankie Germany
(nguồn: TCSH số 146 - 04 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp. 

  • AMBROSE BIERCE   

    Năm 1861, chàng trai Barr Lassiter sống cùng cha mẹ và người chị ở gần Carthage, Tennesse.

  • Nassar Ibrahim là nhà văn, nhà báo người Palestine. Ông còn là nhà hoạt động xã hội, nguyên Tổng Biên tập báo El Hadaf tại Palestine. Truyện ngắn dưới đây được in lần đầu bằng tiếng Ả Rập trong tạp chí Masharef 28, số mùa thu 2005, được Taline Voskeritchian dịch sang tiếng Anh, in trong tạp chí Wordswithoutborders số tháng 11/2006.

  • THOMAS VINT

    L.T.S: Thomas Vint người Estonia, năm nay 49 tuổi. Hiện ông viết văn và sống ở Estonia (Liên Xô). Ngoài khả năng viết văn xuôi, ông còn thích vẽ. Ông đã từng triển lãm tranh ở Pháp vào năm 1988. Ông cũng đã tự minh họa cho tập truyện ngắn đầu tiên của mình.

  • JOSHUA BROWN (Mỹ)  

    “Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
    Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”

  • RAY BRADBURY

    Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.

  • Thomas Burke (1886 - 1945) sinh tại Clapham, ngoại ô thành phố Luân Đôn, nước Anh. Cha chết khi còn rất nhỏ, ông sống với người chú, sau được gởi vào một cô nhi viện.

  • JORGE LUIS BORGES

    Jorge Luis Borges (tên đầy đủ là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo) sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899 tại Buenos Aires, Argentina.

  • CLAUDE FARRÈRE

    Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.

  • HERMANN HESSE
    (Nhà văn Đức, Nobel văn học năm 1946)    

    Trước đây, một chàng trai trẻ có tên là Ziegler đã sống ở ngõ Brauer. Anh là một trong những người thường xuyên ngày nào cũng gặp chúng tôi ở trên đường phố và chưa bao giờ chúng tôi có thể ghi nhớ chính xác khuôn mặt của những người ấy, vì tất cả bọn họ cùng có khuôn mặt giống nhau: một khuôn mặt bình thường ở giữa đám đông.

  • Nhà văn Nenden Lilis A. sinh tại Malangbong-Garut (Tây Java) năm 1971, là giảng viên khoa Giáo dục và Văn chương tại Indonesian Education University ở Bandung.
    Truyện ngắn và thơ của bà đã in trên nhiều ấn phẩm trong nước. Bà cũng thường được mời nói chuyện tại các hội nghị văn học cả ở trong nước và nước ngoài (như Malaysia, Hà Lan và Pháp). Thơ của bà đã được dịch sang tiếng Anh, Hà Lan và Đức.
    Truyện ngắn dưới đây được John H. McGlynn dịch từ tiếng Indonesia sang tiếng Anh.

  • ALEKSANDAR HEMON

    Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy. 

  • Lời dẫn: Cách đây 475 năm, vào ngày 22 tháng 2, tại thành phố Xenvia đã qua đời một người Italia tên Amêrigô, một người đã từng giong buồm liền 7 năm trời trên những vịnh ở phía Bắc và Tây châu Nam Mỹ.

  • LTS: Issac Bashevis Singer sinh tại Ba Lan. Ông là một nhà văn lớn của Do Thái. Hầu hết truyện của ông đều viết bằng tiếng Hébreu và Yiddish, tức tiếng Do Thái cổ. Với lối văn trong sáng, giản dị, có tính cách tự sự, ông thường viết về cuộc sống của những người dân Do Thái cùng khổ. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1978.

  • LTS: Giải thưởng danh giá Goncourt của văn chương Pháp năm 2015 với tác giả là nhà văn Mathias Enard do Nxb. Actes Sud (Pháp) xuất bản.