SERGEI BELOV
Tiểu truyện
Ảnh: internet
Mười tháng sau ngày từ giã quê hương Anna sinh cháu gái đầu lòng, giờ phút nhìn con cười khóc trong vòng tay vợ chồng là giờ phút thiêng liêng nhất đối với Dostoievsky, ông sống trong cảm xúc và ý tưởng về một thế giới mới, thế giới hơn nửa đời người ông mới thấy ước mơ của mình đến thực, ước mơ được làm cha. Ông quấn quít bên bé gái suốt ngày, chăm chút cho bé như một vú em, bàn tay vụng về của Dostoievsky trong sự sắp xếp cuộc sống bỗng dưng thành khéo léo trong tình thương đối với con. Ông làm đủ mọi việc bảo mẫu, nào quấn tả cho cháu, hát ru cháu ngủ, ẩm nựng đùa giỡn cho cháu cười. Từ ngày có con Dostoievsky không rời tổ ấm một lúc nào cả, ông thấy trái tim và linh hồn mình quyện lẫn trong hơi thở của Anna và bé gái.
Nhưng than ôi! Tháng 5/1868 tại Genève, Sonya đứa con đầu lòng của Dostoievsky và Anna vĩnh viễn lìa cha mẹ khi chỉ được 3 tháng tuổi. Dostoievsky ôm lấy thân xác giá lạnh của con khóc ngất, tiếng khóc của ông là nỗi tuyệt vọng không cùng, suốt ngày ông chìm trong đau đớn, cuộc sống của ông khoảng thời gian ấy lịm tắt. Anna phải tìm cách an ủi ông, nhưng ông không nguôi quên được. “Không! Không một thế giới hài hòa nào có thể thay thế được sự mất mát lớn lao này, không một thiên đường nào trong đời chuyển vị được trái tim của người cha bị cướp mất đứa con đầu lòng”. Anna nhớ lại “Fyodor yêu cháu hơn bất cứ gì trên đời nầy, anh thường nói rằng, anh chưa bao giờ sung sướng như vậy khi có Sonya, nỗi tiếc thương của anh ấy nhiều hơn những gì tôi tưởng, trên đời tôi chưa bao giờ thấy một người cha tuyệt vọng như vậy khi mất con mình và anh chỉ nguôi khuây khi chúng tôi có đứa con thứ hai.”
![]() |
Lyubov Dostoyevskaya (Con gái thứ của Dostoievsky) - Ảnh: internet |
Ngày 4/9/1869 bé gái thứ hai chào đời, vợ chồng đặt tên cho con là Lioubov [tình yêu] ánh sáng lại chan hòa trong gia đình, Dostoievsky yêu quý con vô bờ, ngày đêm không rời khỏi con, ông tắm cho cháu, bồng bế ru hời trên tay, sung sướng đến nỗi ông viết thư cho nhà phê bình N.N. Strakhov: “A! Tại sao anh không lấy vợ? Tại sao anh không có con? Hỡi! Anh bạn Nicolai- Nikolayevich, tôi thề với anh rằng ¾ hạnh phúc trên đời nầy nằm trong tình thương con, những gì còn lại chỉ là ¼”.
Tình yêu của Dostoievsky và Anna là bản giao hưởng của hạnh phúc và bất hạnh, thời gian đối với họ là phương tiện để đi đến cái vô cùng của nhau, Anna nhìn Dostoievsky tài tình hơn cả trí tuệ thời đại cô đang sống, hạnh phúc lớn nhất của cô là từng phút từng giờ được chiêm ngưỡng ánh sáng kỳ lạ của “Mặt Trời Dostoievsky”, trong lúc thế hệ cô đang sống, khi ông mất rồi họ mới nhận ra thiên tài, bức thư gởi cho Anna ngày 17/5/1867 ông thú thật “Chúa đã cho em đến cùng anh đến nỗi không một suối nguồn nào trong em sẽ bị hoang phí đi, trái lại nó sẽ nở hoa rực rỡ kỳ diệu. Chúa đã cho em đến cùng anh đến nỗi anh sẽ rửa sạch mọi tội lỗi qua lòng em... anh sẽ ngợi ca em trước mặt Chúa như là một con người toàn thiện.” Sau nầy Liuobov viết về cha mình: “Cha tôi rất quan tâm đến sự phát triển tinh thần của mẹ tôi, ông thường dẫn mẹ tôi đi thăm viện bảo tàng, chỉ cho bà những bức tranh đẹp, những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng và muốn đánh thức trong tâm hồn trẻ trung của bà tình yêu về mọi cái lớn lao, trong lành và cao quý.”
Hình ảnh Anna hiện thân qua nhiều tác phẩm của Dostoievsky, như trong Gã khờ ba người con gái của tướng Epanshin đều mang bóng dáng tính tình Anna, tên ba cô đều bắt đầu bằng chữ A: Alexandra, Aglya, Adelaida. Anna đối với ông là quê nhà trăm năm, không những trong cuộc sống mà còn trong cảm hứng sáng tạo không ngừng. Những năm ở nước ngoài và sau nầy sức sáng tạo của ông đã chứng tỏ điều đó. Thời còn sức trẻ sống với Iyeva và cả người đẹp Suslova ông không tìm thấy cảm hứng như ở Anna, những tác phẩm ông viết ở nước ngoài bên cạnh Anna như “Gã Khờ” “Lũ Người Quỷ Ám” (The Posseded), “Người Chồng Muôn Thủa”, ngoài ra ông còn viết rất nhiều truyện ngắn, tiểu luận và phác thảo nhiều tiểu thuyết lớn trong ấy có cuốn “Cuộc Đời Của Kẻ Trọng Tội”.
Dostoievsky rất yêu âm nhạc và hội họa, đặc biệt là những bản giao hưởng của Beethoven, tranh của Raphael và Claude-Lorraine. Ông thường thả hồn vào thế giới âm thanh của Beethoven, đứng ngắm hàng giờ trước những bức tranh của các họa sĩ phương Tây, tất cả đam mê của ông dần dần hiện ra trong tác phẩm đầy chất khám phá và thấu thị. Suốt cuộc đời Anna nghĩ về ông như là một trẻ thơ mầu nhiệm và cô đã yêu Dostoievsky như yêu trẻ thơ mầu nhiệm ấy, không bao giờ để cho ông thoáng ý nghĩ thất vọng về mình. Trong bức thư gởi về cho mẹ Anna ông viết: “Anna yêu con, trên đời chưa bao giờ con hạnh phúc như vậy khi được sống với nàng, nàng thật dễ thương, rộng lượng, thông minh, nàng tin yêu con và đã kết hợp với đời con khắn khít đến nỗi với tình yêu của nàng, nếu con lìa xa nàng chắc con không sống nổi”.
Ngay những ngày tháng bi đát nhất trong cuộc sống, Anna vẫn lạc quan yêu đời, ông thấy nàng không bao giờ biểu lộ nét ưu tư, lo lắng hoặc phiền trách, nhiều khi túi chỉ còn mấy đồng, ông cũng mua cho Anna khi thì vài bông hoa, khi thì vài cái bánh ngọt để uống trà. Anna nhận những món quà nho nhỏ ấy cô xúc động như ông đã mang về cho cô cả vườn hoa hay cả một tiệm bánh bằng tình yêu của ông.
Những năm ở nước ngoài không bạn bè, không bà con thân thuộc, chỉ có cái nghèo là cận kề với họ, lúc đầu Dostoievsky sợ rằng sự cô đơn mà ông cần để sáng tạo sẽ là nỗi buồn đối với Anna, vì trước đây Isayeva và Suslova không thể chịu nổi khung cảnh ấy, họ thích giao du đó đây hơn là tham dự vào sự thầm lặng của ông, nhưng Anna luôn luôn lập lại rằng: “Hạnh phúc biết bao là những ngày tháng bình yên ấy”.
Trước ngày rời khỏi nước Nga, vợ chồng Dostoievsky dự tính chỉ ở nước ngoài thanh thản ba tháng, nhưng nay bốn năm đã trôi qua. Thời gian ấy những gì trong cuộc sống đã hiện ra với họ như câu trả lời của sự thực, sự thực về tình yêu của họ không thể thiếu nhau mà sống được, sự thực về đời sống lạnh lùng của họ ở nước ngoài, sự thực về những cuộc phiêu lưu xuống mấy tầng địa ngục trên “bàn con quay” đã cho ông khám phá ra toàn bộ máu mê sa đọa của người đánh đu trên hố thẳm đỏ đen. Ngay cả khi mới sang châu Âu vài tháng, Dostoievsky đã nướng hết 100 đồng tiền vàng vào ngày 16/7/1867, ông phải về mở cửa lòng Anna, vợ ông phải gỡ hoa tai, trâm cài đầu mà ông tặng vào ngày cưới để ông tiếp tục cuộc chơi. Ông ôm lấy vợ xúc động, hôn tay Anna bảo rằng: “Trên đời không có người phụ nữ nào bao dung như nàng” rồi ông lao ra cửa như một cơn lốc, ba giờ sau ông trở về cháy túi, nhìn Anna ông đau khổ ôm mặt òa khóc; nhưng đến ngày 16/7 Dostoievsky vơ vét được ít tiền rồi tìm tới cuộc cờ cúng sạch, về nhà Anna đưa cho ông chiếc áo khoát lông rất quý của mẹ cô cho trước khi sang châu Âu, cô đưa luôn cả nhẫn cưới, Dostoievsky đem tới tiệm cầm đồ, cầm cả nhẫn cưới ông đang đeo, cũng may lần nầy số đỏ không cự tuyệt ông, chiều tối ông phơi phới cầm bó hoa hồng trên tay về tặng Anna, chuộc được hai nhẫn cưới và còn dư 180 francs. Nhưng đến ngày 24/7 lửa cờ bạc lại thiêu sạch chút của cải còn lại trong nhà đến nỗi Anna ghi vào nhật ký: “Giờ đây quả thực chúng tôi chẳng còn gì để sống”.
Hai vợ chồng phải rời bỏ khách sạn tìm thuê căn gác xép trên một lò rèn, suốt ngày phải chịu đựng tiếng đe tiếng búa chan chát giữa lúc Anna đang ốm nghén, còn Dostoievky thì quay cuồng với cơn động kinh. Thế cùng Anna phải viết thư về quê hương xin ít tiền để rời khỏi cái tổ quỷ ấy. Ngày 23/8/1867 hai vợ chồng sang Genève, những dòng thư trong thời gian ông ra vào địa ngục sa đọa gởi cho Anna có những đoạn: “Anh đã thua sạch, anh đã đem cầm đồng hồ đeo tay, lạy trời hãy gởi gấp tiền cho anh để anh về nhà, hãy cứu anh lần chót...”.
Bốn năm sống nơi nầy nơi khác, cả Dostoievsky lẫn Anna đều mong mỏi trở về quê hương, trong bức thư gởi cho Maikov, Anna than thở: “Ở đây khổ sở biết bao! Tôi đã quá mệt mỏi vì cuộc sống đổi dời từ chỗ nầy đến chỗ nọ, không có một nơi ổn định, khi nào tôi được trở về quê nhà chắc tôi sẽ không cho phép mình rời khỏi nước Nga lần nữa, nhưng ngày hồi hương của chúng tôi chỉ là giấc mơ, ai biết lúc nào sẽ thành sự thực, ngày ấy hẳn là các chủ nợ sẽ bắt Fyodor vào tù, giá như họ đồng ý để tôi ngồi tù thay anh ấy, tôi sẽ không ở đây thêm một phút nào nữa, tất cả hy vọng của chúng tôi đều trông mong vào Fyodor, nhưng mới đây sức khỏe anh ấy xấu quá, anh thường lên cơn và nhức đầu dữ dội, tuy nhiên chúng tôi sống rất hạnh phúc và hòa hợp, tôi thấy mình sẽ là người sung sướng nhất đời nếu không có lòng mong nhớ nước Nga vời vợi thế nầy. Hãy viết thư thường xuyên anh nhé! Anh biết không! Khi nhận được thư từ quê nhà, khi đọc thư anh, lòng chúng tôi như đến được đời sống nơi ấy”. Từ Genève, Dostoievsky viết thư cho Maikov: “Không được sống ở quê nhà thật đau khổ, tôi cần nước Nga cho cảm hứng và sáng tác của tôi”.
Cuộc sống ở châu Âu không còn gì quyến rũ họ nữa, ngày đêm ước mơ hồi hương càng da diết, nhưng hoàn cảnh của họ khó trở về sớm được, nào là bé gái mới sinh, tiền bạc không có, còn bao nhiêu điều rối rắm buộc lấy chân họ, rồi nỗi lo các chủ nợ lăm le ở quê nhà. Một hôm Dostoievsky than thở rằng:
- Xa nước Nga lâu quá dường như sức sáng tạo của ông cạn dần đi.
Thế là Anna đã tìm đủ mọi cách để trở về ngay như trước đây cô đã quyết tâm vượt mọi khó khăn để ra đi. Trước ngày chuẩn bị hồi hương, Dostoievsky nhận được một bức thư gởi từ Nga báo cho ông biết khi ông về sẽ bị cảnh sát xét hỏi mọi hành lý vì ông bị tình nghi có dính líu với những tổ chức cách mạng thời ấy. Thế là ở Dresden năm 1871 ông đốt hết mọi bản thảo Người chồng muôn thủa, Gã khờ và phần đầu tác phẩm Lũ người quỷ ám. Nếu hồi ấy vợ ông là người đàn bà khác, chắc chắn kho tàng văn học thế giới đã mất đi những tác phẩm vĩ đại ấy, nhưng Anna là người đầu tiên đón nhận ánh sáng của Dostoievsky quyết lòng gìn giữ đến cùng, ngoài những bản thảo cô còn chép riêng một bản khác và đã bí mật đem qua biên giới sau khi cô để ông trở về trước, về đến Saint - Péterbourg việc đầu tiên là cô gởi những tác phẩm ấy cho mẹ giữ.
Giấc mơ hồi hương của họ đã trở thành sự thực, Saint-Péterbourg thuở ban đầu như sống lại trong lòng Dostoievsky-Anna, nhưng nếu thời gian càng làm cho tình nghĩa vợ chồng gắn bó hơn thì cuộc sống nơi đâu cũng có tai ách săn đuổi họ, sau ngày về ông nói với Anna:
- Tốt lắm Anna ạ! Chúng ta đã sống bốn năm hạnh phúc ở nước ngoài, mặc dầu đôi khi có lắm nỗi truân chuyên, còn Saint-Péterbourg sẽ cho chúng ta những gì đây? Anh thấy nhiều nỗi lo âu, khó khăn đón chờ chúng ta khi mới đặt chân trở về.
Anna đáp lời chồng:
- Vấn đề chính là giấc mơ bao lâu của chúng ta đã trở thành sự thực.
Ngày 28/4/1871, sau mười năm lao vào những cuộc cờ đỏ đen, sự thực đã cho ông biết tính chất sa đọa của con người cũng như sự phi lý của kẻ tìm lối thoát cuộc sống trên bàn cờ con quay, ông viết thư cho Anna như là một thực chứng của sự tìm kiếm nầy “Một việc lớn lao đã diễn ra trong anh, thói ngông ghê tởm từng dày vò anh mười năm đã biến mất, từ mười năm nay, không! Đúng hơn là từ ngày anh trai chết, khi anh è cổ ra để gánh lấy nợ nần, anh đã mơ ước kiếm tiền, anh đã mơ ước nghiêm chỉnh say mê, bây giờ tất cả đã chấm dứt”. Dostoievsky đã thực sự đoạn tuyệt với “bàn con quay” sau bức thư ấy.
Ngày 16/6/1871 Anna sinh con thứ ba ở Saint-Pe1terbourg, đó Fyodor, con trai duy nhất của vợ chồng ông. Những ngày mới về nước Anna hy vọng bán căn nhà mẹ nàng cho làm của hồi môn để trả dần nợ cho ông. Nhưng thời gian nàng ở nước ngoài, người quản lý lợi dụng không có nàng đã âm mưu đem bán đấu giá, thế là hy vọng trả nợ tiêu tan, tình trạng của hai vợ chồng thật nguy khốn, bốn năm không thấy các chủ nợ tưởng đã quên được, bây giờ trở về, họ như đàn quạ chực chờ lăn xả vào Dostoievsky, giữa lúc sự sống của gia đình chỉ trông chờ vào việc bán tác phẩm “Lũ Người Quỷ Ám” đang đăng tải ở báo Rusky-Vestnik. Đứng trước nguy cơ một ngày Dostoievsky sẽ bị bắt vào tù, Anna mới sinh dậy, nàng đã phải một mình chống đỡ bảo vệ ông tới cùng, vì hơn ai cả cô hiểu rằng hạt kim cương vô giá đang kết tinh trong nội tâm chồng mình, cô quyết không để bi kịch nào nữa ảnh hưởng đến giờ phút sáng tạo của ông, đó là ngày khai sinh đứa con tinh thần bất tử Anh em con nhà Karamazov (The Brothers Karamazov) mà ông đề tặng Anna tác phẩm vĩ đại ấy.
Như một người mẹ bảo vệ con mình trước nanh vuốt thú dữ, Anna chống đỡ, thương lượng, chạy vạy đối phó với các chủ nợ, trong gia đình cô quán xuyến hết mọi việc, cô muốn Dostoievsky hoàn toàn thanh thản, bình yên với mùa sáng tạo đang chín, cô chăm sóc sức khỏe của ông như người mẹ, mỗi lần ông đi đâu, cô đắn đo sợ trên đường đi ông sẽ gặp điều không may, cô thường bước ra cửa trông theo đến khi ông dần khuất.
![]() |
Minh họa: Nhím |
Năm 1872 là năm đại nạn của gia đình, nào bé gái Lioubov bị té gãy tay, người chị ruột Anna chết lúc tuổi ba mươi, tiếp tục mẹ Anna lâm trọng bệnh rồi Anna bị viêm họng đến nổi bác sĩ ái ngại cho sự sống của cô. Trước hoạn nạn mới thấy hết sức chịu đựng, ý chí và lòng hy sinh của nàng. Trong nhật ký của nhà văn viết năm 1876, Dostoievsky ngợi ca hình ảnh dũng cảm của người phụ nữ Nga qua tấm gương sáng đẹp của vợ ông: “Cuối cùng tôi muốn nói hình ảnh khác nữa về người phụ nữ Nga, tôi nói rằng phụ nữ Nga là một trong những hy vọng lớn nhất, một trong những ước mơ trẻ trung nhất của chúng ta, sự hồi sinh của người phụ nữ Nga trong hai mươi năm qua thật không tranh cãi được, hy vọng của người phụ nữ đã vươn lên hòa chan vào sự trong sáng, không sợ hãi, ngay từ bước đầu điều ấy đã thể hiện lòng cao quý... người phụ nữ đã quả quyết nói lên ước mong của mình muốn tham dự vào cuộc đấu tranh chung và thực tế họ đang làm như vậy, không phải vì lòng vị kỷ nhưng bằng tâm tình hiến dâng...”.
Tất cả những tác phẩm Dostoievsky viết sau ngày gặp Anna, những người phụ nữ đáng yêu trong ấy đều ít nhiều mang bóng dáng, tính tình của cô, Sonya trong phần cuối của Tội ác và hình phạt, chân dung ba chị em trong Gã khờ rồi Tatina trong “Evgeni-Onegin” và bài diễn văn ông đọc ngày tưởng niệm Pouchkine.
Thật vậy mười bốn năm làm vợ Dostoievsky, Anna đã chứng tỏ cô là người vợ phi thường của đại văn hào Dostoievsky, cô quên đi bản thân mình, vui trong niềm vui chồng con, hiến dâng cho sự sáng tạo của Dostoievsky là mục đích đời cô, cô lo lắng mọi việc trong nhà, một mình chống đỡ biết bao tai biến để giữ bình yên cho ông. Niềm vui lớn nhất của cô là sự sáng tạo của Dostoievsky, mỗi lần ông viết xong một tác phẩm cô sung sướng như khi hạ sinh một đứa con vào đời. Năm 1876 từ Eims ông viết thư về cho Anna: “Em là người phụ nữ phi thường, tuyệt vời nhất trong tất cả những người phụ nữ, chính em, em không ngờ được năng lực của em đâu! Không những em gánh vác hết mọi việc nhà, công việc của anh, nhưng còn tất cả công việc của chúng ta nữa. Ví như em là nữ hoàng cho em một vương quốc, anh thề với em rằng, em sẽ trị vì tốt đẹp hơn bất cứ vị vua nào khác. Quả thật em thông minh, quán xuyến, độ lượng và đủ năng lực tổ chức như vậy...”.
Năm 1878 gia đình thêm một cái tang đau đớn nữa, đứa con út chết khi tuổi mới lên ba sau cơn động kinh, năm ấy Dostoievsky đang viết tác phẩm cuối cùng Anh em con nhà Karamazov. Tình yêu của người cha thật vô cùng, trái tim ông càng sống càng yêu thương, cũng như cái chết của Sonya trước đây, nhớ thương con đến nỗi ông không viết được tác phẩm cuối cùng ấy. Trong những ngày bất hạnh đó, Anna nén lòng đau để giúp ông nguôi quên, cô nhờ người bạn trẻ, nhà triết học Vladinuz-Soloyev khuyên ông đến thăm vị linh mục nổi tiếng đạo hạnh và linh thánh ở tu viện Optina. Sau khi trở về ông thấy lòng yên ổn và tiếp tục sáng tác với sinh lực mới.
Anh em con nhà Karamazov Dostoievsky bắt đầu viết khi về sống ở Staraya-Rusa, một thị trấn nhỏ gần Novgorod, nơi có những dòng suối nước khoáng tốt cho sức khỏe con cái, ở đây ông rất thích, không khí trong lành, yên tĩnh, gia đình ông sống trong căn nhà của người anh Anna, dù không phải sở hữu nhưng về đây gia đình ông thoát được cái cảnh thuê nhà thay đổi liên tục ở Saint-Péterbourg. Suốt cuộc đời sáng tạo, đêm đối với ông là ánh sáng, khi cả nhà bắt đầu yên giấc là lúc ông làm việc, ông khám phá những bí ẩn của con người, của cuộc đời đều ở trong đêm, trà, cà phê ông uống thật đậm mỗi khi cầm bút và khi cả nhà thức dậy thì ông lên giường ngủ. Thời gian sau nầy chứng bệnh khí thủng mà ông mắc phải vào những năm tù đày tái phát trầm trọng, ông phải đi Eims để điều dưỡng lâu dài, Anna đã làm mọi điều để gìn giữ sức khỏe của ông.
Tháng 6/1880, Dostoievsky thực hiện những nguyện ước của đời mình, trả sạch nợ trần ai, lòng yên ổn với tuổi đời cánh hạc và đọc bài diễn văn tưởng niệm Pouchkine ở Moscow, con sơn ca yêu quý tự do mà thời trẻ ông ngưỡng vọng, suốt đời ông vẫn giữ tình cảm ấy. Bài diễn văn của ông là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt tác, đẹp như lời ca thiên nga, ông đã tâm huyết viết nên bài ca suốt đời ông mong muốn.
Sau nầy Lioubov nhớ lại “Cha tôi hy vọng sẽ tiếp tục điều trị vào tháng 9, nhưng rồi ông bỏ ý định ra nước ngoài, vì ông đang thỏa nguyện với cảm xúc chiến thắng trong ngày ấy, ông nghĩ ông còn đủ sức để sống thêm một năm nữa khỏi phải đi Eims chữa bệnh. Ôi! Ông đâu có biết cơ thể, xương cốt ông đã suy kiệt đến chừng nào, ý chí sắt đá của dòng tư tưởng bùng cháy trong tim ông cho ông sức sống tràn đầy để vượt qua sự thực của thân xác, nhưng thực tế ông đã yếu lắm rồi...”.
Dostoievsky biết sức mình lắm chứ! Ông thừa hiểu chứng bệnh khí thủng có thể phát triển rất nhanh và nguy kịch, Anna còn hiểu rõ điều ấy hơn nữa, nhưng cô không ngờ ngày cuối cùng của đời ông đến mau như vậy. Có lẽ nếu ông không thao thức nhiều đêm để viết bài diễn văn tâm huyết ấy thì ông còn sống thêm dài lâu nữa.
Đêm 25 rạng ngày 26/1/1881, khi ông xê dịch kệ sách để tìm cây viết bị rơi, bỗng ông gập người ôm lấy ngực ho dữ dội, vài tia máu vươn theo nước dãi chảy ra miệng. Hôm sau ông cãi cọ dữ dội với người chị V.M. Ivanove về chuyện chia gia tài, thế là tình trạng bệnh càng trầm trọng. Sớm ngày 28/1/1881 ông đánh thức Anna dậy, ông khàn giọng nói:
- Anna! Em biết không? Anh đã nằm thao thức ba tiếng đồng hồ, bây giờ anh biết rõ rằng đúng ngày nầy anh sẽ chết.
Anna ôm lấy ông nghẹn ngào, quả quyết rằng ông sẽ sống nhưng Dostoievsky ngắt ngang lời cô:
- Không! Em ạ! Anh biết anh sẽ chết ngày hôm nay, hãy thắp đèn lên Anna, lấy cho anh cuốn Gospel. Đó là cuốn Tân Ước mà ba mươi năm trước những người vợ nhóm tháng chạp đã cho ông ở Tobolsk trên đường đi đày tới địa ngục Sibérie, trước giờ phút lâm chung ông muốn bàn tay mình tình cờ lật kinh và đọc trang bên tay trái. Sáng hôm đó ông giở cuốn Gospel ra nhưng ông không đủ sức để đọc, Anna nức nở gạt nước mắt đọc cho ông nghe, ông tỉnh táo nói với cô:
- Hãy nhớ rằng Anna, anh mãi mãi yêu em say đắm và không bao giờ làm em thất vọng.
Ông gọi con cái đến bên giường dặn dò chúng phải sống thế nào sau khi ông mất, bảo chúng phải yêu thương mẹ thế nào, phải yêu sự chân thật, yêu lao động, phải yêu người nghèo và luôn luôn tìm cách giúp đỡ họ.
Anna không rời khỏi chồng một phút, cô muốn đem sự sống của mình chan hòa vào hơi thở của ông nhưng không thể, Dostoievsky cầm lấy tay cô rưng rưng:
- Em thương yêu! Làm sao anh bỏ em... cho đành… với người vợ nghèo thế nầy!... với cuộc sống giờ đây biết bao khó khăn em phải một mình gánh vác...
Mặt trời của Anna vĩnh viễn lặn tắt năm cô vừa tròn 35 tuổi nhưng đối với cô hạnh phúc riêng tư từ đây đã chấm dứt, cuộc sống trước mắt chỉ còn nỗi đau và lòng tưởng nhớ, trong nhật ký cô viết về những ngày vĩnh biệt ấy: “Có điều duy nhất tôi biết rõ rằng, cuộc sống bao nhiêu hạnh phúc vô cùng ấy đã hết, từ đây tôi mãi mãi là người lẻ bóng, với tôi người yêu thương chồng tôi cuồng nhiệt như vậy, tận tụy như vậy, đã thể hiện hết tình yêu, tình bạn, lòng kính trọng với con người nhân bản lớn lao nầy. Trước sự mất mát nầy thật không có gì bù đắp nổi, trong những giờ phút đau thương của sự thực, tôi thấy mình khó sống nổi sau cái chết của chồng tôi, trái tim tôi sắp vỡ tan hoặc rồi đây tôi sẽ hóa điên... Tôi đã mất đi con người toàn diện nhất trần đời. Người là niềm vui, kiêu hãnh, hạnh phúc của đời tôi. Ôi! Mặt Trời của tôi, ôi! Thần Thánh của tôi.
Đám tang của văn hào là một sự kiện lịch sử lớn thời ấy, khi ánh sáng vầng dương đã tắt con người mới vội vã níu lấy hoàng hôn, gần 30.000 ngàn người đi sau quan tài Dostoievsky, có những người đeo gông, quàng xiềng lên mình để tưởng nhớ cuộc đọa đày của văn hào trong ngục tù Sibérie, họ đưa ông tới nơi an nghĩ cuối cùng ở tu viện Alexandre-Newsky trong niềm tiếc thương một thiên tài đã ra đi. Với Anna mùa xuân còn lại đã chấm dứt, trước linh cửu Dostoievsky cô đã thề nguyền sẽ ở vậy trọn đời để phụng thờ ông, sau nầy nhiều người hỏi cô sao không đi bước nữa khi tuổi xuân đang tràn trề nhựa sống, Anna tỏ ý giận nói rằng:
- Điều ấy đối với tôi là sự phạm thánh - Nhưng rồi cô bông đùa - Sau Dostoievsky tôi có thể lấy ai bây giờ? Tolstoi ư?
Anna tiếp tục tìm hạnh phúc trong tinh thần Dostoievsky. Công việc của cô thật lớn rộng và đa dạng, cô đứng ra xuất bản toàn bộ tác phẩm của Dostoievsky đến bảy lần. Năm 1883 cô mở ở Staraya-Rusa một trường học miễn phí mang tên Dostoievsky cho tất cả trẻ em nghèo và căn nhà họ ở thị trấn trước đây cô xây dựng thành viện bảo tàng của văn hào. Tập hồi ký của cô và thư từ của Dostoievsky lần lượt xuất hiện, đó là tác phẩm thật quý giá với những gì trong đời sống thực của gia đình, nơi ấy Dostoievsky hiện ra là một người chân thật đến cùng, một người chồng đằm thắm, giản dị và độ lượng. Ngoài ra Anna còn xuất bản tập tiểu sử đầu tiên về Dostoievsky, viết lời chú giải về những tác phẩm của ông. Sách vở bản thảo của ông Anna xây dựng thành thư viện và thường có những buổi họp mặt nói chuyện, hồi tưởng về nhà văn, cô còn mở cạnh viện bảo tàng lịch sử Moscow một phòng đặc biệt về F.M.Dostoievsky. Và công việc sau cùng của Anna là tác phẩm chỉ dẫn thư tịch về những tác phẩm của ông và những tác phẩm nghệ thuật liên quan đến cuộc đời sáng tác của Dostoievsky.
Anna đã thực hiện trọn vẹn lời phát nguyện của cô trước linh hồn Dostoievsky, nửa cuộc đời còn lại cô thủy chung với ông. Những năm về già ước mơ duy nhất mà cô thường dặn dò con cháu là được vĩnh viễn nằm cạnh Dostoievsky nhưng số phận đã quyết định khác hẳn.
Mùa hè năm 1917 Anna đi dự lễ thường năm ở phương nam thì bà ngã bệnh trong lúc ấy quân Đức đang chiếm đóng Crimée nên không thể đưa bà trở về Pretrograd được. Những ngày cuối cùng của bà ở tại Yalta, đến hơi thở cuối cùng Anna vẫn nhắc đến Dostoievsky, con người duy nhất chỉ cho bà thấy đâu là thiên đường, đâu là địa ngục. Anna mất tại Yalta ngày 9/6/1918, người phụ nữ biểu tượng cho người vợ, người mẹ Nga đẹp nhất cuộc đời đã trở về với Dostoievsky trong cõi vĩnh hằng.
Ngày 9/6/1968, kỷ niệm 50 năm ngày Anna-Grigouyevna - Dostoievskaya từ trần, cháu nội Andrei đứng ra thực hiện lời nguyện ước của bà: Chuyển hài cốt Anna về an táng tại tu viện Alexandre-Newsky. Sau lưng hai ngôi mộ Dostoievsky - Anna là hình ảnh người mẹ Nga mãi mãi bao dung, gìn giữ giấc nghìn thu của họ. Và tình yêu kỳ diệu của Dostoievsky - Anna mãi mãi là bình minh hạnh phúc cho mọi con tim trên toàn cầu chiêm ngưỡng.
VƯƠNG KIỀU
(Lược dịch theo bản tiếng Anh)
(SH317/07-15)
TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...
ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.
PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.
BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...
NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.
PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.
NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.
NGUYỄN VĂN DŨNG Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.
NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.
PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...
Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.
TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.
NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.
KEVIN BOWEN
(Giám đốc WJC)
LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.
NGUYỄN BÁ CHUNG
Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.
VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.
NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.
NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).
PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.