Tính sáng tạo về phong cách trong cách dùng chữ “xuân” của Nguyễn Du qua tác phẩm Truyện Kiều

15:04 04/03/2010
HỮU ĐẠTMột trong những đặc điểm dễ nhận thấy về phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều chính là tính sáng tạo qua việc dùng từ. Có thể bàn đến nhiều trường hợp khác nhau, trong đó chữ Xuân là một ví dụ khá điển hình.

Ảnh: cad.vn

Trước hết, chữ Xuân được Nguyễn Du dùng với nghĩa thông thường, tức là với nét nghĩa cơ bản có tính phồ biến mà hễ người Việt Nam thì ai cũng biết. Xuân chỉ “một mùa khí hậu trong năm” được gọi là ba tháng mở đầu của năm:

            Gần xa nô nức yến anh,
            Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Từ nét cơ bản, nét nghĩa được coi là nghĩa gốc của từ Nguyễn Du đã nhiều lần tái tạo, phát hiện làm cho chữ xuân có nhiều sắc thái đa dạng và tinh tế.

Trong Truyện Kiều, một mặt Nguyễn Du đã triệt để khai thác những khả năng vận động nghĩa của từ theo qui luật chung về sự phát triển của tiếng nói dân tộc, mặt khác ông còn tạo ra nhiều văn cảnh lý thú làm cho chữ xuân trở nên sống động bởi một quá trình chuyển hóa khá tinh tế về các nét nghĩa phái sinh của nó. Chẳng hạn, trong trường hợp trên đây, chữ xuân không chỉ có nghĩa thông thường mà còn có ý nghĩa “lễ hội”:

Cũng như vậy, khi dùng chữ xuân với nét nghĩa là “đẹp”, cách tả của Nguyễn Du rất gợi, tạo nên nét nghĩa về cảm giác:
            Bóng hồng nhác thấy nẻo xa
            Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.

hoặc:
            Hải đường lả ngọn đông lân
            Giọt sương gieo nặng cành xuân là đà.

Mặc dù sử dụng chữ xuân rất nhiều lần nhưng Nguyễn Du đường như không chịu để xảy ra sự trùng lặp. Nếu ngày xuân trong cách nói thông thường chỉ có nét nghĩa là sự “tươi đẹp” thì ở Nguyễn Du, qua miêu tả lời thoại của Kim Trọng, hai chữ này lại có những nét nghĩa tinh tế hơn, nét nghĩa về “tuổi trẻ” và rất gợi tình:

             Sinh rằng: “Rày gió mai mưa
            Ngày xuân đã để tình cờ mấy khi”

Với nét nghĩa là “vui" cách dùng chữ xuân của Nguyễn Du còn có thêm nét nghĩa bộc lộ tâm trạng:

            Một trường tuyết chở sương che
            Tin xuân đâu dễ đi về cho năng

Có những trường hợp, thoạt nhìn chúng ta rất dễ nhầm lẫn để nghĩ rằng tổ hợp hai chữ đêm xuân không có gì khác nhau, nhưng thực chất nó lại rất khác nhau. Sự khác nhau ấy không chỉ biểu hiện qua nét nghĩa tình thái của từ mà còn khác nhau bởi phần tin bổ sung có tác dụng gợi tả tình cảm hoặc thể hiện ý tưởng sâu kín của nhà thơ.

Ví dụ:
            - Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần,
            Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
            - Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,
            Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng.

Trong câu thơ thứ nhất, xuân có nét nghĩa dễ nhận thấy là sự “êm ái, nhẹ nhàng”, còn trong câu thứ hai nó mang thêm một phần tin bổ sung là sự “trăn trở” trong tâm trạng hướng về tình ái.

Qua một số ví dụ ở trên chúng ta thấy rằng, chữ xuân từ nét nghĩa vụ thể chuyển sang nét nghĩa trừu tượng là một quá trình vận động về nghĩa. Trong đó, có hai quá trình đi song song với nhau. Một quá trình xảy ra mang tính lịch sử, được củng cố qua thời gian. Một quá trình xảy ra mang tính sáng tạo cá nhân, được hình thành nhờ bàn tay sử dụng của nhà nghệ sĩ. Hai quá trình này nằm trong quan hệ bổ sung, tác động lẫn nhau. Nó chính là quan hệ giữa hệ thống và biến thể. Hệ thống là chỗ dựa, là nơi xuất phát cho mọi sáng tạo. Còn những cách sử dụng đa dạng mang dấu ấn cá nhân lại làm phong phú, sống động thêm những đặc điểm, tính chất đã được định hình và xác lập trong thực tế.

Nói tới sự sáng tạo của Nguyễn Du cũng cần nói tới những kiểu cấu tạo tổ hợp làm cho chữ xuân có thêm những phẩm chất mới về nghĩa. Từ ý nghĩa cơ bản ban đầu là chỉ một mùa cụ thể trong năm, trong một số trường hợp, Nguyễn Du đã dùng cách ghép từ để tạo ra nét nghĩa mới chỉ sự vận động của thời gian với tâm trạng riêng để qua đó nói lên sự thay đổi trong những khoảnh khắc đời người.

Trong bốn câu thơ sau đây, Nguyễn Du đã dùng tới hai chữ xuân, trong đó có một tổ hợp ghép song song xuân thu theo cách như vậy:

            Những là phiền muộn đêm ngày,
            Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
            Chê khoa gặp hội trường văn,
            Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày.

Có thể thấy, ở đây nghĩa của chữ xuân không còn chút bóng dáng gì của nét nghĩa cơ bản ban đầu. Nó đã được trừu tượng hóa hoàn toàn và trở thành một nét nghĩa khái quát chỉ sự thay đổi của tạo hóa trong cách đánh giá riêng của nhà thơ.

Trong rất nhiều trường hợp, phong cách Nguyễn Du đã tạo thành một dạng vẻ riêng, vừa gần gũi với quần chúng, lại vừa mang tính bác học rất cao.Chữ xuân trong câu thơ sau có nghĩa là “tuổi trẻ” nhưng do biết tạo lập văn cảnh Nguyễn Du đã làm cho sau cái nghĩa hình tượng của nó còn có những nét nghĩa bộc lộ, nghĩa cảm xúc, gây cho lòng người đọc một nỗi niềm da diết xót xa:

            Kiếp hồng nhan có mong manh,
            Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.

Điều đáng chú ý hơn là trong Truyện Kiều Nguyễn Du còn chú ý khai thác chữ xuân với ý nghĩa là “cây xuân” vốn ít được người đời chú ý.Với ý nghĩa này, trong Truyện Kiều “cây xuân” thường được dùng với nghĩa chỉ tuổi thọ, hoặc chỉ cha già:

            Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,
            Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.

hoặc:
            Liêu dương cách trở sơn khê,
            Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang.

Khai thác chữ xuân ở phương diện này Nguyễn Du đã tạo nên cho thơ ông màu sắc của phong cách bác học. Nó thể hiện sự uyên thâm, tính chủ động trong việc phát huy những tiềm năng ngữ nghĩa của từ ở nhà thơ. Nó làm cho Truyện Kiều dù đồ sộ nhưng không bị trùng lặp, nhàm chán.

H.Đ
(132/02-2000)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

  • Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.  

  • TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.

  • LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.

  • PHONG LÊĐó là: 1. Từ sự phân cách, chia đôi của hai thế giới - địch và ta, chuyển sang hội nhập, cộng sinh, có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa. 2. Từ cộng đồng chuyển sang cá nhân, cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển, nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng. Và 3. Từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu, hội nhập với khu vực và quốc tế, với sự lưu tâm hoặc cảnh báo: trong đi tắt, đón đầu mà không được đứt gẫy với lịch sử.

  • ĐỖ HẢI NINH(Nhân đọc tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Nxb Phụ Nữ, H, 2009; tác phẩm nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2009)

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện nay, vấn đề đổi mới thi pháp đang được nhiều người cầm bút quan tâm. Xin ghi lại cuộc trao đổi mới đây giữa tôi (PQT) với một nhà văn (NV) về vấn đề bức thiết này.

  • (Theo bách khoa thần học New Catholie)THẨM GIÁ PHÊ BÌNH Việc thiết định giá trị phán đoán trong phê bình đã được kiểm thảo một cách nghiêm khắc trong thế kỷ XX. Chẳng hạn, người ta cho rằng phê bình đã vượt lên cả tầm vóc “viên đá thử vàng” trong việc thẩm giá hội họa để dẫn dắt thị hiếu thưởng thức hội họa của công chúng.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.

  • ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)

  • HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.

  • ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…

  • HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.

  • HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết)         (tiếp Sông Hương số 248)

  • Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .

  • Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.

  • Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.

  • HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.