Tình khúc Huế thế kỷ hai mươi

15:38 19/08/2008
NGUYỄN XUÂN HOATrong bối cảnh tiến tới Festival Huế 2002, Hội Âm nhạc Thừa Thiên- Huế đã tập hợp 100 tình khúc Huế để giới thiệu với các bạn yêu thích âm nhạc và những người yêu Huế như một món quà trong những ngày hội. Sông Hương xin giới thiệu bài viết nhìn lại những tình khúc Huế trong thế kỷ vừa qua như một lời giới thiệu về tuyển tập này.

Là một vùng văn hoá mang đậm sắc thái truyền thống của Việt Nam, Huế đã từng là xứ sở của tiếng hát, là chiếc nôi sản sinh ra ca Huế, ca nhạc Huế và lễ nhạc cung đình Huế; gắn với một vùng dân ca, dân nhạc, với một hệ thống ngũ cung độc đáo: ngũ cung Huế sâu lắng mượt mà.
Âm nhạc truyền thống Huế đã thấm sâu trong các xóm làng và ruộng đồng xứ Huế, từng réo rắt ở chốn đền đài, cung điện và dinh phủ của triều đình, vang vọng trong nhiều khoang thuyền và bến nước của sông Hương, hoà quyện với trầm hương của đình chùa, miếu điện... Đã một thời Huế được biết đến như một xứ nhạc, xứ thơ.
Đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh của một kinh thành bị lệ thuộc thực dân Pháp, một hình thức âm nhạc mới- phường nhạc Tây- đã bắt đầu manh nha ở Huế. Khởi đi từ các nhà thờ Thiên chúa giáo, các đồn binh của Pháp, âm nhạc phương Tây đã vào tận chốn cung đình: năm 1918 dàn nhạc kèn hơi (orchestre d’hormonie) đầu tiên ở Việt Nam do Bùi Thanh Vân tổ chức, sáng lập đã ra đời ở Toà Khâm sứ Huế. Một năm sau (1919) tại triều đình nhà Nguyễn, vua Khải Định cũng cho thành lập dàn nhạc kèn hơi theo phong cách phương Tây do Trần Văn Liêu tổ chức và đào tạo. Năm 1920, dàn kèn hơi của đội lính khố xanh do Tourneau chỉ huy lại tiếp tục ra đời ở Huế, đánh dấu những đội hình âm nhạc mới, lần đầu tiên xuất hiện ở Việt .
Trong hoạt động của các dàn nhạc kèn hơi, cùng với những bài quân nhạc Pháp được trình tấu theo nghi thức binh nhạc phương Tây. Trong các buổi trình diễn, các dàn nhạc kèn còn giới thiệu những tác phẩm âm nhạc cổ điển và lãng mạn của châu Âu trong các dinh thự, cung điện và cả ở "nhà kèn" trong vườn hoa công cộng trước Toà Khâm sứ Huế.
Những dàn nhạc kèn hơi ra đời sớm ở Huế được đào luyện có bài bản, có trình độ nghệ thuật khá nên thường được chọn đi biểu diễn ở các nơi xa: Năm 1922 ra biểu diễn tại Hội chợ Đấu xảo Hà Nội. Năm 1930 vào biểu diễn khánh thành đường sắt ở Sài Gòn. Năm 1931 đi biểu diễn ở Hội chợ Quốc tế Paris .
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, những bài hát "lời ta điệu Tây" của Nguyễn Văn Tuyên bắt đầu xuất hiện ở Sài Gòn, Huế và Hà Nội. Từ tờ báo Tiếng Dân ở Huế, tên tuổi người nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên được giới thiệu rộng rãi với công chúng.
Sau thắng thế của phong trào thơ mới năm 1935, những bài “tân nhạc" lãng mạn của Việt cũng ra đời và không ngừng phát triển. Trong bối cảnh sơ khai của những tình khúc lãng mạn nầy, năm 1939 bài hát Trên sông Hương của Nguyễn Văn Thương đã ra đời ghi một dấu mốc quan trọng, mở đầu cho những tình khúc Huế thế kỷ XX.
Bắt đầu từ những tình khúc lãng mạn "dương thế bao la sầu", chuyển biến thành những tình khúc đầy mộng mơ, những tình khúc trẻ trung, thôn dã, làm rung động tình cảm yêu quê hương đất nước, phát triển thành những ca khúc yêu nước, khơi dậy những chiến tích và truyền thống hào hùng Bạch Đằng Giang, Nước Non Lam Sơn, Bóng Cờ Lau, Gò Đống Đa... trong thời kỳ trước năm 1945. Âm nhạc mới Việt Nam còn được tiếp sức và lớn lên cùng với tiến trình của cuộc cách mạng khởi đi từ Tháng Tám 1945, với sự xuất hiện của những ca khúc cách mạng, ca khúc cộng đồng, ca khúc thiếu nhi và từng bước phát triển thêm các thể loại nhạc kịch, vũ kịch, nhạc thính phòng, nhạc giao hưởng, ca nhạc nhẹ, nhạc trẻ,v.v... tiến một bước rất dài: chuyển từ sự chập chững trong thời kỳ mới tiếp cận với âm nhạc phương Tây để dần dần trở thành âm nhạc mới của Việt , dung nạp cả yếu tố Tây phương và Á Đông mà vẫn mang đậm bản sắc Việt .
Trong dòng chảy của sự tiếp biến văn hoá nầy, trên đất Huế đã xuất hiện cơ sở Tỳ Bà Trang của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba từ năm 1949 nhằm "góp sức xây dựng một nền nhạc Việt bằng cách tô bồi nhạc mới, chấn hưng và cải tổ âm nhạc cổ truyền" khá độc đáo. Một Nhà xuất bản âm nhạc chuyên nghiệp - Nhà xuất bản Tinh Hoa của Tăng Duyệt ra đời tại Huế, hoạt động liên tục trong những năm 40- 50 của thế kỷ nầy đã hội tụ đông đảo các khuôn mặt nhạc sĩ của đất nước. Trường Quốc gia âm nhạc và Kịch nghệ Huế được thành lập từ năm 1962 và đến nay hợp nhất với trường Mỹ thuật Huế thành Đại học Nghệ thuật Huế đã góp phần đào tạo, hình thành một đội ngũ những người hoạt động âm nhạc, những tài năng âm nhạc tiêu biểu của miền Trung và Tây Nguyên.
Qua gần một thế kỷ phát triển, trong gia tài âm nhạc hiện đại của Việt Nam, những tình khúc Huế lại chiếm một chỗ đứng khá đặc biệt với hàng ngàn ca khúc viết về Huế, từ tình yêu đôi lứa đến tình yêu đất nước quê hương, mang tính đa dạng cả về phong cách, thể loại, hợp thành một dòng nhạc trữ tình về Huế.
Có thể nói Huế là nguồn cảm hứng đầy chất trữ tình, khơi dậy sức sáng tạo của rất nhiều nhạc sĩ ở khắp mọi miền của đất nước và cả với những người Việt ở nước ngoài. Những khúc tình ca xứ Huế không những đã lay động tâm hồn của những người con xứ Huế mà còn thu hút sự chú ý của những người yêu thích âm nhạc Việt .
Từ Trên sông Hương của Nguyễn Văn Thương năm 1939 đến Tiếng xưa, Đêm tàn Bến Ngự Ngọc Lan của Dương Thiệu Tước, Thiên Thai của Văn Cao, Tiếng sông Hương của Phạm Đình Chương, Gợi giấc mơ xưa của Lê Hoàng Long, Hẹn một ngày về của Lê Hữu Mục, Trở về cố đô của Văn Phụng, Giã từ cố đô của Phạm Mạnh Cương, Mưa rơi của Ưng Lang và Châu Kỳ, Tà áo tím của Hoàng Nguyên, Khúc tình ca xứ Huế của Trần Đại Mỹ, Mưa trên phố Huế của Minh Kỳ, Trở về thôn cũ của Nhị Hà, Ngàn thu áo tím của Hoàng Trọng- Vĩnh Phúc, Từ Đàm quê hương tôi của Văn Giảng... đến Diễm xưa, Chiều trên quê hương tôi, Biết đâu nguồn cội của Trịnh Công Sơn, Một mùa xuân nho nhỏ, Nắng tháng ba của Trần Hoàn, Huế - tình yêu của tôi của Trương Tuyết Mai- Đỗ Thị Thanh Bình, Huế thương của An Thuyên, Dòng sông ai đã đặt tên của Trần Hữu Pháp, Rất Huê của Võ Tá Hân v.v... tình khúc Huế đã băng qua nhiều chặng đường, với sự góp mặt của nhiều thế hệ nhạc sĩ, từ Thế Bảo (Chiều thu bên sông Hương), Hoàng Hiệp (Một lần đến, Một đời yêu), Phan Huỳnh Điểu (Đây thôn Vĩ Dạ), Tân Huyền (Thành phố bên bờ sông Hương), Phạm Trọng Cầu (Cho dù năm Tháng), Hoàng Vân (Màu áo tím và màu áo trắng), Lê Mộng Bảo (Bài thơ Huế), Thuận Yến (Ern là Huế và thơ), Xuân Hồng (Huế và ước mơ), Chu Minh (Nghe câu hò Huế gợi xuân sang), Nguyễn Đức Toàn (Tình ca Huế), Xuân Cửu (Sông Hương), Hồng Đăng (Người sông Hương), Hoàng Sông Hương (Thành phố chúng mình thương), Thái Quý (Huế mãi trong tôi), Hà Sâm (Tạm biệt Huế), Nguyễn Trọng Tạo (Dòng sông bến đậu), Trần Long Ân (Nhớ Huế), Trần Quang Lộc (Em còn nhớ Huế không) đến Tôn Thất Lập (Tiếng hát về khuya), Nguyễn Phước Quỳnh Đệ (Đường về Thành Nội), Nguyễn Phú Yên (Ngàn năm vẫn lạ), Trương Thìn (Tìm nhau), Nguyễn Xuân An (Một thời Tôn Nữ), Lê Anh (Ánh mắt thành Huế), Mai Xuân Hoà (Một chiều Thiên An), Việt Đức (Huế nhịp phách tiền), Dương Bích Hà (Câu hò quê hương), Nguyễn Việt (Chiều Huế), Vĩnh Phúc (Huế gọi tôi về), Lê Phùng (Thương mãi câu hò), Khắc Yên (Tìm em trong nét Huế), Trần Hữu Dàng (Có một dòng sông), Quốc Dũng (Huế đêm trăng), Bửu Dũng (Huế), Dương Đức (Huế ước mơ), Trần Đức (Em là mùa xuân thành phố), Lê Việt Hà (Bỗng dưng nhớ Huế), Tố Hải (Huế thương- quê nội của tôi), Hà Chí Hiếu (Mơ sông Hương), Dương Viết Hoà (Ông già Bến Ngự), Hoàng Minh Hoan (Tím Huế), Châu Đức Khánh (Huế ngàn thương), Phạm Ngọc Khôi (Dòng sông mang tên em), Tôn Thất Lan (Làm sao không nhớ không thương), Nguyễn Văn Mỹ (Mưa Huế), Nguyễn Đình San (Với Huế), Hồng Sơn (Huế - đêm xuân về), Thế Tuyên (Sen trăng), Đức Trịnh (Ngược Dòng Hương Giang), Thuỷ Trúc (Về Huế chiều xuân), Đặng Quang Vinh (Câu hò xứ Huế), Nguyễn Viêm (Huế- tên của nỗi nhớ), v.v...
Có thể nói cả một đội ngũ điệp trùng với những bài hát về Huế đã từng xuất hiện trong dòng chảy miên man của những khúc tình ca xứ Huế mà đến nay vẫn chưa có một công trình thống kê, hệ thống hóa một cách đầy đủ.
Mong rằng Huế sẽ sớm có một công trình nghiên cứu, tập hợp để khơi nguồn cho dòng mạch những tình khúc Huế tiếp tục luân lưu và phát triển.
N.X.H

(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.