Tìm hiểu các hệ thống chữ nhạc qua tác phẩm thái bình cổ nhạc

10:08 28/12/2012

TRỌNG BÌNH - QUÝ CÁT  

Nền âm nhạc cổ truyền nói chung và Âm nhạc cung đình Việt Nam nói riêng từ xa xưa đã có một kiểu chữ nhạc riêng dùng để ký âm, ghi chép thành văn bản tất cả các bài bản để lưu truyền qua nhiều thế hệ...

Cố nghệ nhân Nguyễn Ngọc Viêm đọc bản ký âm “Thái Bình cổ nhạc” được viết bằng chữ Hán - Nôm.

Ban đầu người Việt tiếp thu và sử dụng chủ yếu phương pháp ký âm của Trung Hoa. Phương pháp này ra đời khoảng thế kỷ XIV vào thời nhà Minh, thường gọi là Công Xê phổ; trong đó sử dụng các chữ Hán theo kiểu tiếng Việt là họ, xừ, xàng, xê, cống… Qua quá trình vận dụng hệ thống này cùng với việc hiểu rõ và nhận ra những khác biệt sâu sắc giữa hai nền âm nhạc Trung Hoa và Việt Nam, người Việt đã dần dần Việt hóa lối ký âm của Trung hoa, biến nó thành một phương pháp ký âm thể hiện rõ và đầy đủ các tính chất đặc biệt của từng âm thanh trong âm nhạc của dân tộc mình.

Trải qua nhiều thế kỷ, các thế hệ nghệ nhân đã kế tiếp nhau liên tục tìm tòi, cải tiến bổ sung và sáng tạo thêm nhiều kiểu ký âm mới phù hợp hơn với bản sắc của âm nhạc dân tộc Việt Nam. Sau một thời gian tiếp xúc với các văn bản âm nhạc, đặc biệt là Âm nhạc cung đình Huế, dựa trên tìm tòi nghiên cứu, chúng tôi tìm hiểu khá đầy đủ các phương pháp ký âm cổ của Việt Nam mà các nghệ nhân, nghệ sĩ xưa đã sáng tạo và lưu lại một cách tâm huyết trong tác phẩm Thái Bình cổ nhạc.

Thái Bình cổ nhạc (TBCN) là một tác phẩm cổ điển, thuộc hệ thống nhạc lễ cung đình Huế, dạng hòa tấu Đại nhạc đã được người xưa sáng tạo, bảo tồn và lưu truyền đến ngày nay dưới nhiều tên gọi dân gian như Trống Quân, Trống Thập Điều. Theo lời kể của các nghệ nhân, trước đây nó thường được trình tấu dưới dạng trích đoạn hoặc đầy đủ toàn bộ trong các lễ lớn hàng năm như lễ Ban Sóc (ban lịch mới hàng năm), lễ Đảo Vũ (cầu mưa, chống nắng hạn hoặc cầu tạnh nắng khi gặp mưa nhiều ngày)…

Do liên tục được các đời nghệ nhân tìm cách giữ gìn và lưu truyền lại dưới dạng truyền nghề kết hợp với tính truyền khẩu đặc trưng nên TBCN hầu như đã được đúc kết, hệ thống hóa một cách hoàn thiện và đầy đủ về hình thức cấu trúc cũng như nội dung, tư tưởng. Trong quá trình điền dã, thu thập tư liệu, chúng tôi đã sưu tầm được sáu dị bản TBCN từ các nghệ nhân Thừa Thiên Huế, Quảng Trị và Quảng Bình. Nội dung của chúng thể hiện khá rõ nét tính “tam sao thất bổn, tính bảo thủ, tính che giấu bí mật nghề nghiệp nhằm tạo ưu thế nghề nghiệp cũng như để giữ bản quyền về bài bản”… Qua phân tích kỹ lưỡng cả sáu dị bản, chúng tôi nhận thấy chỉ có thể dựa vào sự hiện diện của Giá Hai cũng như Nghi Trống (trình tự diễn tấu các bài bản trong TBCN) để phân biệt bản gốc hay dị bản. Từ đó, từng bước xác định nội dung toàn bộ của tác phẩm.

Nội dung của TBCN rất phong phú và có quy mô hoành tráng, có thể chia thành 5 chương, diễn tấu theo trình tự như sau:

I/ Tam luân cửu chuyển (TLCC).

II/ Giá Ba - Giá Ký - Giá Một - Giá Ký - Giá Bảy - Giá Ký.

III/ Giá Ba - Quân Đại.

IV/ Giá Hai - Quân Tiểu.

V/ Giá Một - Giá Bảy - Mở Cờ.

Tất cả các bài bản trong 5 chương kể trên đều là bài bản trống. Cả sáu dị bản chỉ nhắc đến cái tên Tam Luân Cửu Chuyển và ghi lại nội dung của các bài bản trống ở trên. Hầu như từ trước đến nay TLCC chỉ được lưu truyền dưới dạng truyền khẩu, truyền roi truyền nghề mà không được ghi thành bài bản (Truyền thư bất như truyền khẩu). Các nghệ nhân lưu giữ nó bằng trí nhớ và củng cố dần qua những lần trình tấu. Tính chất phi văn bản này của TLCC kết hợp với tính đa văn bản của từng bài bản trống trong TBCN đã buộc các nghệ nhân mỗi khi muốn trình tấu TBCN phải ngồi lại với nhau để tập luyện bằng cách ráp miệng; qua đó tìm cách thống nhất nội dung bài bản trước khi biểu diễn.

Ngoài các bài bản trống ở trên, một số dị bản còn cung cấp thêm phần Nghi Trống và nội dung của duy nhất 1 bài bản dành cho Kèn lỡ (hiện nay gọi là kèn Sona). Bài bản Kèn này thường được các nghệ nhân gọi là bài kèn Thái Bình. Giai điệu của nó thường được diễn tấu lặp đi lặp lại tựa như phần nền nhằm làm nổi bật màu âm của từng roi trống trong mỗi bài bản trống khi dàn nhạc hòa tấu bốn chương cuối của TBCN.

Việc nghiên cứu chuyên sâu các bài bản (trống cũng như kèn) của tác phẩm TBCN có thể cho phép chúng ta nhận dạng rõ các phương pháp mà các nghệ nhân, nghệ sĩ xưa đã sử dụng để ghi chép một cách tổng quát toàn bộ nội dung của tác phẩm. Qua đó chúng tôi đúc kết được một số hệ thống dung để ký âm bài bản như hệ thống Xàng - Xê, Ha - He và Giá - Chình - Tang.

* Để ký âm bài Kèn Thái Bình, lúc ban đầu theo thói quen, các nghệ nhân sử dụng hệ thống Họ - Xừ - Xàng (tức là Công - Xê phổ của Trung Hoa đã được các cụ Việt hóa trước đây). Sau quá trình sử dụng, nhận thấy vai trò quan trọng của hai âm Xàng - Xê trong âm nhạc truyền thống nên các cụ đã dùng tên của chúng để đặt tên cho hệ thống này. Về sau, các cụ đã sử dụng một loạt các chữ Hán - Nôm bắt đầu bằng phụ âm H để diễn tả một cách tương đối cao độ và màu sắc đặc trưng các âm thanh của Kèn lỡ. Tất cả các chữ nhạc đó được nghệ nhân gọi là hệ thống Ha - He.

- Sau đây là các chữ nhạc thuộc hệ thống Xàng Xê, theo trình tự từ thấp lên cao trong bài kèn Thái Bình: Họ (tương đương nốt Sol 1), Xừ (La 1), (Si 1), Xàng (Đô 2), (Rê 2), Cống (Mi 2), Lưu (Sol 2), U (La 2) và Xáng (Đô 3).

Việc sử dụng các chữ nhạc thuộc hệ thống Xàng - Xê cho phép chúng ta dễ dàng tái hiện đúng nguyên xi cao độ vốn có của giai điệu bài bản nếu trước đó nội dung bài bản được ghi chép bằng hệ thống này.

Theo bản gốc về TBCN của các phái thuộc dòng họ Nguyễn Ngọc (thôn Uất Mậu huyện Quảng Điền) thì các chữ nhạc thuộc hệ thống Ha - He đặc tả các âm Kèn theo trình tự từ thấp lên cao trong bài kèn Thái Bình như sau:

Khi giai điệu Kèn ở bậc hò 1 (hò chính): Họ (tương đương nốt Sol 1), (La 1),(Đô 2), He (Rê 2), Hi (Mi 2), (Sol 2), Hi (La 2) và (Đô 3).

Khi giai điệu Kèn ở bậc hò 4 (hò phụ): (La 1), (Si 1), Ha (Rê 2), He (Mi 2), Hi, Ha (Sol 2).

Việc sử dụng các chữ nhạc thuộc hệ thống Ha - He để ghi chép nội dung bài kèn có giai điệu nằm trong một bậc hò thì rất đơn giản nhưng vì Thái Bình là bài kèn mà trong giai điệu có sự chuyển bậc hò (từ hò 1 qua hò 4 rồi về lại hò 1) nên mọi chuyện lại khó giải quyết hơn. Để đơn giản và hợp lý, các nghệ nhân xưa đã lấy các chữ nhạc dùng ở hò 1 đem dùng lại ở hò 4 để đặc tả các âm có cao độ cao hơn các âm cũ một bậc. Về lâu dài mà nói thì việc tái sử dụng như vậy sẽ gây nhiều khó khăn và nhầm lẫn cho những người muốn tái tạo nguyên xi giai điệu của bài kèn Thái Bình đã được ghi bằng chữ nhạc Ha - He. So với hệ thống Xàng - Xê thì rõ ràng đây là một nhược điểm lớn của hệ thống Ha - He mà chúng ta cần phải tìm cách khắc phục.
 

Trống và kèn - hai nhạc cụ chính thường được sử dụng trong “Thái Bình cổ nhạc”


* Dựa trên âm vang thực tế của các roi trống, tập thể nghệ nhân nghệ sĩ xưa trong nhiều thế hệ đã chọn dùng một số chữ Hán - Nôm thích hợp để ghi lại các bài bản trống trong TBCN theo cách đặc biệt của mình và gọi đó là hệ thống Giá - Chình - Tang.

Tuy các nghệ nhân sử dụng nhiều từ Hán - Nôm khác nhau trong cả sáu dị bản, song dựa vào âm vang thực tế chúng tôi phân biệt được 12 chữ nhạc chính (Các chữ nhạc tương đương còn lại nằm trong ngoặc) trong bảng kê sau:
 

STT

Chữ nhạc

Âm vang

thực tế

hiệu

Cách thực hiện trên trống

1.    1

GIÁ

CẮC

C2

2 tay gõ vào dăm trống cùng một lúc

 

CÁ (TRÓC)

CẮC

C

Dùng tay thuận gõ vào dăm trống

 

CẮC

C

Dùng tay không thuận gõ vào dăm trống

 

RÍ (CÀ GIÁ)

CÀ RẮC

cr

Dùng tay gõ nhanh liên tục vào dăm trống, có kết hợp với việc vận dụng gân tay

 

CHÌNH

(KÌNH LẠNH)

TOÒNG

T2

T

Dùng 2 tay gõ vào giữa vào mặt da cùng một lúc

Dùng tay thuận gõ vào giữa mặt da

 

CÒNG

(TÙNG TÒNG)

TOÒNG

T

Dùng tay không thuận gõ vào giữa mặt da

 

RÒNG

(CÀ RÒNG,

CÀ CÒNG, CÁ SÔNG

CÀ ROÒNG

cR

Dùng cả 2 tay gõ nhanh liên tục giữa mặt da, hoặc dùng tay thuận kết hợp với vận dụng gân tay gõ liên tục vào mặt da.

 

TANG

TANG

T2

T

Dùng cả 2 tay gõ vào 2 bên của mặt da

Dùng tay gõ vào 1 bên của mặt da

 

RANG

(CÁ SOI,

TRANG)

CÀ RANG

cR

Dùng 2 tay gõ nhanh liên tục vào 2 bên của mặt da hoặc dùng tay thuận có kết hợp với vận dụng gân tay gõ nhanh vào 1 bên của mặt da.

 

TỊCH

TỊCH

t

Dùng tay gõ xuống giữa mặt da và để yên (không giở tay lên.

 

RỊCH

(CÀ RỤP, CÀ KHẮP)

CÀ RỤP

Crp

Dùng 2 tay gõ xuống giữa mặt da cùng 1 lúc và để yên (không giở tay lên)

 

KÍCH

(GÕ)

KÍCH (CẮC)

K

Gõ 2 thân roi trống vào nhau ngay trên mặt trống.


Từ bảng thống kê các chữ nhạc ở trên chúng ta thấy các nghệ nhân đã đặc tả các roi trống một cách khá chi tiết từ cách gõ bằng một tay (tay thuận - thường là tay phải hoặc tay không thuận - thường là tay trái) đến cách gõ bằng hai tay tại nhiều vị trí khác nhau trên trống để tạo nhiều âm vang trống có âm sắc phong phú với nhiều sắc thái cường độ khác nhau. Ngoài ra, chúng ta cũng cần chú ý đến thuật ngự Cà (Cá) ở mục 4, 7, và 11 nhằm chỉ kỹ thuật vê roi trống (có kết hợp gân tay) trên dăm trống (mục 4) hoặc giữa mặt trống (mục 7) trên một bên của mặt trống (mục11). Rõ ràng “Giá Chình Tang” là một hệ thống các thuật ngữ âm vang dành cho trống tương đối đơn giản nhất, có hiệu quả tốt và tính khoa học cao.

Tóm lại sự hiện diện của TBCN ngày hôm nay đã minh chứng cho chúng ta thấy rõ sự say mê nghệ thuật âm nhạc dân tộc cùng sức lao động bền bỉ đầy tâm huyết của các thế hệ nghệ nhân đời trước: Từ các bậc tiền bối sáng tạo ra tác phẩm cho đến các bậc nghệ nhân bảo tồn và tìm cách lưu truyền nó đến ngày nay. Thật rất đáng cho chúng ta trân trọng và tri ân thay cho hậu thế bằng cách cố gìn giữ nguyên xi nội dung, sử dụng và phát huy vai trò của tác phẩm trong cuộc sống. Hy vọng trong tương lai sẽ có thêm những phương pháp ký âm đơn giản, rõ ràng và hiệu quả hơn dành cho âm nhạc cổ truyền Việt Nam.

T.B - Q.C  
(SH286/12-12)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang