Tiếng nói chung của lòng nhân ái

09:27 20/04/2012

ÐÔNG HÀ

Tôi là người sinh ra sau chiến tranh, lớn lên bằng những bài học lịch sử. Thế hệ chúng tôi yêu Tổ quốc theo những bài học ông cha để lại qua những trang sách cộng thêm chút tính cách riêng của chính bản thân mỗi người. Mỗi người chọn cho mình một cách thể hiện tình yêu đó khác nhau.

Nhà thơ Đông Hà - Ảnh tác giả cung cấp

Và với riêng tôi, tôi đã chọn cách thể hiện tình yêu Tổ quốc mình qua những bài dạy trên lớp cho học sinh cùng một cuộc sống bình dị vẫn diễn ra hằng ngày. Ðó là thời thơ ấu được bước đi trên con đường làng ngập mùi hoa dại. Những năm tháng cả đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh, còn nhiều cơ cực nhưng ký ức tuổi thơ vẫn còn lưu giữ những đám mây trắng bồng bềnh trôi trên bầu trời thơm ngát hương hoa. Những cánh đồng mùa chiêm lạnh tái ngắt vẫn thoang thoảng mùi rơm rạ mỗi chiều đông làm ấm lòng những đứa bé chăn trâu ngồi co ro nướng củ khoai làm niềm vui không thứ gì có thể đổi được.

Tình yêu Tổ quốc lớn lên trong tôi bằng những con đường tiếp bước qua tháng năm. Những chuyến xe đò lạch xạch chở tôi đi suốt chiều dài đất nước bằng sự nỗ lực rất lớn của chính mình trong thời gian đó đã giúp tôi ý thức được nhiều hơn về một khuôn mặt Mẹ đầy nếp nhăn. Nếu như trên trái đất này, ai đó đã từng tự hào cho rằng vẻ đẹp của người già nằm ở nếp nhăn, những nếp nhăn là quà tặng của đời, là những trải nghiệm đẹp về cuộc đời rất đáng sống này thì quả thật lúc đó tôi không thích. Mẹ tôi vẫn còn trẻ lắm, bà cùng cha tôi đã cùng nhau trải qua cuộc chiến vừa rồi để cuối cùng lại phải chia tay nhau cũng chỉ vì những hệ lụy của chiến tranh. Bà nhiều nếp nhăn khi tuổi đời còn đang rất trẻ, hẳn nhiên, tôi không cho đó là đẹp. Có khi, tôi còn căm ghét chiến tranh, điều mà cha mẹ tôi không bao giờ nhắc lại. Có chăng thi thoảng trong những câu chuyện của hai người, tôi chỉ nghe họ kể về những kỷ niệm vui và ấm áp từ đồng đội mình ngày trước. Mẹ tôi thường tiếc rẻ, các chàng trai hành quân qua làng mình ngày ấy trẻ và gương mặt sáng láng lạ lùng. Cha tôi vẫn giữ tấm hình cô giao liên có đôi mắt tròn xoe và hai bím tóc dày thả trên vai, khóe miệng cô mỉm cười. Tôi hỏi cha cô ấy bây giờ ở đâu, cha tôi chỉ im lặng.

Tất nhiên tôi cũng lớn lên theo năm tháng. Bài học lịch sử trong rất nhiều trang sách giáo khoa chúng tôi đã trải qua. Chúng tôi được dạy kỹ càng về những bài học quý giá đó. Sau này, tôi học thêm bằng sự trải nghiệm về những điều không có trong sách vở. Bằng cách nào, tôi cũng càng thêm yêu Tổ quốc bên cạnh một nỗi đau riêng của gia đình sau những hệ lụy của chiến tranh. Dù rất hiểu những bài học về lịch sử, tôi vẫn không hiểu tại sao những người con gái con trai đang sống bình yên trong những căn nhà của mình, buộc phải vác ba lô trên vai ra đi, để khi trở về họ lại phải ngượng ngập nói với nhau những lời xin lỗi, mà theo cách quan sát của một đứa - con - nhân - chứng là tôi, không ai có lỗi trong chuyện này. Lỗi là do những người từ phía chiến tuyến bên kia.

Ðể rồi khi thực sự lớn lên, tôi không an lòng bởi những câu hỏi đó. Ông ngoại tôi mất trong cuộc chiến chống Pháp. Cha mẹ tôi chia tay nhau để lên đường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cả làng quê tôi đã một thời rút từng tấm ván vách nhà ra để lót đường cho những chuyến xe tiếp quân lương vũ khí vào chiến trường miền Nam sục sôi máu và lửa và nước mắt. Tôi và các em tôi đã sống một tuổi thơ thiếu thốn sau những ngày đất nước phải gồng mình gánh những di chứng chiến tranh để lại. Ðất nước Việt Nam của chúng tôi xinh đẹp. Con người xứ sở chúng tôi thông minh, cần cù và thuần hậu. Những con đường đất nâu giản dị của chúng tôi trải dài qua các nẻo luôn gợi lên vẻ đẹp dung dị, bình yên và ấm áp. Bầu trời quê hương chúng tôi thường có những buổi chiều mùa hè xanh thắm, trong veo. Vậy tại sao chúng tôi lại phải sống những tháng ngày thiếu thốn, thậm chí cả đôi phần lạc hậu như bây giờ? Những di chứng chiến tranh còn để lại trong những cánh rừng, trên những con đường nham nhở, trên lỗ chỗ những vết tích bom rơi đạn lạc. Ðau đớn hơn cả là trên những số phận con người đi ra từ chiến tranh. Thậm chí cả nếp nghĩ bị hằn sâu một cuộc sống thời chiến tranh vẫn tồn tại dai dẳng trong mỗi cái giật mình trong giấc ngủ của những người lính bước ra khỏi cuộc chiến.

Khi còn bé, tôi không thích tất cả những người Mỹ. Trong nhận thức của một bé con lúc ấy, người Mỹ đơn giản chỉ là kẻ thù. Kẻ thù của chính cuộc sống chúng tôi.

Bây giờ đã cách một quãng khá xa cho cái trí óc non nớt đó, tôi đã mỉm cười thân thiện với rất nhiều những người bạn đến từ xứ sở cờ hoa. Có nhiều lần, tôi đã từng ngồi uống rượu với một người bạn già đến từ nơi đó. Người bạn già đã từng tham chiến ở Việt Nam, khó khăn lắm ông ta mới có thể quay trở lại nơi đây, hằng chiều ngồi bên một cái quán nhỏ vệ đường Nguyễn Tri Phương, im lặng uống từng cốc rượu đế nhỏ, thi thoảng ký họa một vài bức tranh vu vơ. Thuở ấy chúng tôi không có nhiều chuyện để nói, nhưng vẫn thường ngồi với nhau như một sự cần thiết. Cho đến một hôm đang ngồi bên vệ đường như thường ngày, người đàn ông này đã đứng dậy rảo bước ra đường, nhặt một chiếc lá cờ đỏ sao vàng của ai đó vô tình làm rơi xuống lòng đường xe cộ tấp nập. Có lẽ lá cờ này vừa được tham dự một cuộc mít tinh. Tôi đã thấy nó rơi từ lúc nãy, nhưng hành động của người bạn già này khiến tôi xấu hổ trong một ám ảnh không nguôi.

Lúc này tôi đã tìm ra được một cách gọi tên riêng cho mỗi đơn vị con người cá nhân đến từ nước Mỹ. Phải cụ thể cho mỗi XYZ chứ không phải là Acmerican nói chung nữa. Những trang sách triết luận đã giúp tôi tìm ra những câu trả lời cho mọi thắc mắc tồn tại từ thế giới ấu thơ xưa kia. Câu thơ Nguyễn Du đọc được trong một đêm khuya nào đó đôi lúc trở lại bất chợt "Thịt da ai cũng là người". Vâng, dù khác biệt màu da, sắc tộc, văn hóa, tôn giáo, lịch sử, địa lý vô vàn tỉ tỉ những điều gì đi chăng nữa, thì chúng ta cùng chung nhau một thứ, đó là dòng máu đỏ. Ðã mang dòng máu đỏ trong người, nghĩa là đều biết đau đớn cả về tinh thần lẫn thể xác.

Ðã đến lúc tôi biết mình không nên tìm cách cắt nghĩa chiến tranh. Ðiều này hãy để sự thật trong veo hiện ra giữa những trang sử. Nhân loại có triệu triệu cặp mắt, thấu điểm sâu nhất sẽ thu lại thành cái nhìn chung. Nhân loại tất nhiên có nhiều nhiều nhiều lắm các thế hệ nối tiếp, bản thân một thế hệ chưa hẳn đã đưa ra lời phán quyết đúng cuối cùng duy nhất được. Tôi biết đã đến lúc quá khứ với những câu hỏi dằng dai trong tôi nên chấm dứt thì hơn. Ðể mở ra một trang tiếp theo đầy tươi mới.

Dù vậy, tôi vẫn không ngừng đọc những trang sách mà ở đó những tháng năm trải dài qua cuộc chiến vẫn sống tươi rói như ngày mới qua. Ðây là công việc của một người giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường, cũng là một niềm yêu thích của tôi. Tôi đọc bằng cách "giản dị và bình tâm", như cách dùng từ của nhà thơ Nguyễn Khoa Ðiềm. Ðể yêu thêm Tổ quốc mình bằng sự kính phục và cảm kích những người trẻ tuổi bằng lớp thanh niên chúng tôi bây giờ, trẻ hơn tôi bây giờ rất nhiều, đã sẵn sàng lên đường theo lời hiệu triệu của Tổ quốc không ngần ngại, không toan tính, không âu lo, không gợn chút riêng tư nào cả cho chúng tôi có cuộc sống như hôm này.

Nhưng tất cả đó, cũng chỉ là những hiểu biết của tôi về sự ngã xuống của những con người trong chiến tranh một phía. Phía bên kia, bằng sự hỉ xả được thừa hưởng từ cái vị tha của dân tộc tính truyền lại, tôi không còn hờn giận họ nữa. Nhưng dửng dưng.

Cho đến khi tôi bắt gặp rải rác trên các tờ báo, các tạp chí, trong câu chuyện của những người bạn văn chương lớn tuổi đáng kính về sự hoạt động của một trung tâm của những nhà văn cựu binh Mỹ đang cố tìm mọi cách để xoa lành vết thương từ cuộc chiến tranh này đã khiến tôi quan tâm. Tuy nhiên, tất cả cũng chỉ là sự quan tâm thường tình, bởi đã có lúc tôi nghĩ: những con người đó, họ sám hối để lấn át những ám ảnh tâm lý về những hành động không đúng của họ từ cuộc chiến tranh kia. Trong chừng mực nào đó, những hành động của họ chỉ là sự trấn an tâm lý của những con người giàu có và đầy đủ. Còn đất nước chúng tôi vẫn đang đầy dẫy những nỗi đau mà bản thân một đứa trẻ sinh ra và lớn lên sau chiến tranh vẫn còn sờ, nắm, chạm vào hằng ngày thì sự sám hối kia như một món hàng xa xỉ.

Tôi sẽ còn tiếp tục nghĩ thế, nếu như không đọc tiếp những bài viết của chính những nhà văn, nhà thơ này được đăng tải lần lượt trên Tạp chí Sông Hương (số tháng 3.2012). Ở đó, tôi bắt gặp những cái nhìn đồng cảm từ những tâm hồn hướng sâu về thế giới nội tâm của con người với cách nhìn rất thực, rất cuộc đời. Họ đã vượt qua những trở ngại của bản thân để xin một tấm vé quay trở lại nơi này, viết về mảnh đất quê hương xứ sở của những con người họ đã từng gây nên sự tổn thương rất lớn. Tôi nghĩ, với hành động này, họ đã chấp nhận làm người thua cuộc lần thứ hai trước chúng ta - chúng tôi để trả món nợ tâm hồn mà quá khứ vô tình họ lỡ gây ra. Hành động này của họ xứng đáng được chúng tôi ghi nhận.

Ðể rồi từ đó, miệt mài hai mươi năm, những con người ấy đã tận tụy từng con chữ, từng ki lô mét giới hạn của biên tuyến, họ nhẫn nại vượt qua từng chút từng chút một để đến một ngày, chúng ta cùng ngồi lại, nghẹn ngào bắt tay nhau, nhìn vào mắt nhau, chảy nước mắt mà rằng: tại sao lại phải đến bây giờ mới có thể như thế này? Tại sao? Chúng tôi và họ - đều là những con người đúng nghĩa, chung nhau về một hệ cấu tạo đứng về mặt sinh học, biết căm giận biết hối lỗi biết tha thứ biết yêu thương đã có thể trao nhau những cái ôm thật bình dị nhưng rất đầy ý nghĩa để có lúc nào đó cùng nói lên hai chữ "chúng ta", không phải "chúng tôi và họ" xa cách đầy ngần ngại nữa. Nhà văn Tô Nhuận Vỹ đã giật cái tít rất thẳng, trực diện cho bài tham luận của mình ở "Diễn đàn văn học Việt - Mỹ: Nhìn lại và phát triển" là "Cầu nối giữa hai bờ đối nghịch". Quả thực, đã có lúc tôi đã đặt mình vào phía đối nghịch với tất cả những người đó. Như hầu hết quan niệm của những người dân Việt Nam thời kỳ hậu chiến. Nhưng chiến tranh có những trò chơi khốc liệt của nó, có những người bị cuốn vào trò chơi đó như một sự tình cờ định mệnh thì cuộc đời vẫn còn có chung cái tên nữa là Nhân Loại. Nhân Loại vẫn còn chung nhau một khái niệm Nhân Văn cao cả. Văn chương đảm nhiệm sứ mệnh này, tìm ra những giá trị nhân văn để làm cầu nối những chiến tuyến đôi khi vô tình bị đẩy đến cực đối lập.

Và phải đến lúc được đọc lại những trang viết của nhiều nhà văn, nhà thơ đương thời như Hữu Thỉnh, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Duy, Ðỗ Chu tôi mới nhận thấy rằng, tự lúc nào, bằng sự nhẫn nại, các nhà văn, nhà thơ của William Joiner Center đã tự nguyện đứng về hàng ngũ của chúng tôi, những con người Việt Nam. Tự nguyện chấp nhận sự nguyền rủa, phỉ báng và cuồng sát của những người chống Cộng tại chính đất nước của họ để đi đến một minh chứng cuối cùng, minh chứng của lòng yêu chuộng hòa bình, của sự hàn gắn những rạn nứt mà chính phủ đất nước họ đã gây ra cho dân tộc Việt Nam. Lãnh sứ mạng lớn lao, những con người bình thường đã bằng trái tim nhỏ bé nhưng không một lúc nào ngừng lại, đập những nhịp đập chung với nỗi đau hậu chiến của dân tộc Việt Nam nhằm mục đích duy nhất là hàn gắn hai tâm hồn lớn của hai dân tộc.

Lúc này, tôi quý trọng những nhà văn, nhà thơ đến từ Trung tâm William Joiner đã lặn lội tìm ra những cách thức riêng dù nhỏ bé để kêu gọi lòng yêu chuộng hòa bình thế giới qua những trang viết của họ. Ðặc biệt, tôi yêu quý ông Bruce Weigl, người mà tôi có dịp đọc khá kỹ về tập thơ After the Rain Stopped Pounding. Qua những gì ông viết và những gì ông làm với cô bé Hạnh ông nhận làm con nuôi, tôi hiểu việc ông nhận nuôi một đứa trẻ Việt không đơn thuần là bứng nó đi như một cây con sang trồng chỗ đất mới, mà ông đã hiểu cô con gái nuôi đó chính là một cây lúa - ông bứng đi trồng và đem luôn những nét văn hóa nguồn cội làm nguồn dinh dưỡng cho em, để sau này khi lớn lên, em trở lại vẫn là một người con Việt. Ðể cái gốc dân Việt luôn là nỗi tự hào trong mỗi con người dù đi bất cứ nơi đâu. Lúc đó, sự hòa hợp dân tộc thật sự mới là điều có thật.

Tôi nhớ Bruce Weigl đã từng nói trong diễn đàn: "Nghịch lý của đời tôi luôn là việc chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ của tôi, làm tổn thương tâm hồn tôi vĩnh viễn, nhưng cùng lúc đó nó đã dành tặng tôi Việt Nam với tất cả sự bí ẩn và huy hoàng của nó. Tôi không biết tại sao tôi không phải là người Việt Nam". Lúc này tôi muốn nói với ông rằng, không cần thiết phải tiếc nuối vì ông (và những ai muốn) không phải là người Việt Nam, một khi tất cả chúng ta đã cùng nhau tìm ra tiếng nói chung nhân ái, chúng ta đã cùng đứng với nhau về một phía, thì Tổ quốc của mỗi người sẽ trở thành Ðất Mẹ chung thiêng liêng và cao cả sẵn lòng đón nhận những tấm lòng của những ai muốn trú ngụ nơi đây.

Huế, 9 - 12 tháng 3 năm 2012
Ð.H
(SH278/4-12)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...