TRẦN THÙY MAI
Các bạn gái Huế khi tiếp xúc với người từ địa phương khác vẫn thường được khen: giọng Huế dễ thương quá.
Ảnh: tư liệu
Được nghe vậy ai chẳng thích, nhưng thành thật mà nói, giọng Huế chỉ có ưu thế khi thủ thỉ ở cự ly gần. Còn khi nói trước đám đông thì không thuận lợi mấy, dù là nay đã có sự hỗ trợ của các loại micro tối tân.
Bằng chứng là đa số người Huế khi vào sống trong Nam đều phải đổi giọng hoặc ít, hoặc nhiều. Không phải là không yêu không quý giọng nói của mình, nhưng chức năng chính của ngôn ngữ là giao tiếp. Mỗi lần nói gì phải nhắc lui nhắc tới người ta mới hiểu, thì quả là bất tiện. Cho nên, chí ít cũng phải “chuyển ngữ” một số từ địa phương, mà ta thường gọi là những “tiếng Huế chay”: mô, ri, tê, răng, rứa. Sau khi chuyển ra: đâu, này, kia, nào… thì tiếng Huế đã biến thành một thứ “tiếng Huế phổ thông”, có thể dùng ở miền Bắc, nhưng vào Nam đi chợ thì ngay tiếng Huế phổ thông vẫn còn khó khăn, muốn nhanh gọn lẹ thì hay hơn hết là đổi luôn cả thanh âm.
Rất nhiều khi, tôi vào chợ Bến Thành, đang xổ giọng Nam ra để hỏi mua vài thứ, thì chị bán hàng vừa nghe được cái âm lơ lớ trong giọng tôi, chị liền đổi giọng từ giọng Nam ra giọng “Huế chay”. Thì ra chị là người Huế, vào Nam lập nghiệp từ năm 1968. Khỏi nói, hai bên cùng xổ giọng Huế “gin” ra, cả hai đều thấy sung sướng vô cùng. “Thiên lý tha hương ngộ cố tri” mà lị!
Sau này, khi qua sống ở Mỹ, nhiều lần đi siêu thị tôi cũng gặp chuyện tương tự. Thấy anh thu ngân tóc đen tôi cứ nghĩ là người Tàu hay Phi gì đó, nhưng anh vừa nhìn tên trên thẻ liền phát ra tiếng Việt, hai bên đều vui như Tết. Anh ta bày cho tôi những cách để làm thẻ ưu đãi, ôi mừng quá, đồng hương thật là tử tế quá chừng.
Trở lại với tiếng Huế! Với đà phát triển của đất nước, người các vùng miền đi lại, giao lưu, làm việc buôn bán… càng lúc càng tăng. Những phương ngữ của Huế, thứ tạo thành “tiếng Huế chay” thân thương, thứ tạo ra cảm giác quê nhà mỗi lần về thăm lại, càng lúc càng bị chuyển ra tiếng phổ thông, một số đã dần bị quên lãng. Mấy hôm trước, đọc bài tôi viết, một cô bé Huế hỏi: “Chữ “the thía” nghĩa là gì hả cô?”. Tôi ngạc nhiên, vì cứ tưởng người Huế ai cũng biết từ đó. Thời tôi còn thường xuyên đi chợ Đông Ba, nếu buổi sáng tôi ra mua cái gì, các bà bán hàng thường vừa cầm tiền vừa xuýt xoa: “The thía, lành vía tốt tiền, người hiền tiền tốt.” Để giảng nghĩa tiếng này, thật là khó, chỉ biết rằng, nó gợi lên trong ta một cảm giác gì như là “gừng cay muối mặn”, bởi vì the cũng là cay, nhưng là cái cay nhè nhẹ đủ hít hà đầu lưỡi, đủ thấm thía như cái tình người bán với người mua, được tỏ bày qua một lời cảm ơn đồng thời là lời chúc sớm mai.
Hai chữ “the thía” đã bị quên rồi, chắc rất nhiều từ “Huế chay” cũng đã phai mờ trong ngôn ngữ thường ngày ở Huế. Có chăng là còn trong ca dao tục ngữ.
Ngày trước khi mới bắt đầu công tác tại trường Đại học Sư phạm, tôi được giao công việc sưu tầm văn học dân gian. Mỗi mùa hè đi với sinh viên về miền quê, tôi gom góp được rất nhiều câu hò điệu hát. Phải nói dân ca Huế là một kho tàng đầy “tiếng Huế chay”, mô tê ri răng rứa mà nghe rất dễ thương, không quê mùa một chút nào:
Anh xa em ra chưa đầy một tháng,
Nước mắt lai láng hai mươi tám đêm ngày
Biết răng chừ cho nước ráo lòng mây
Nước sông Dinh bớt chảy, duyên nớ với nợ này mới thôi thương.
“Nước sông Dinh” tức là nước sông Hương. Với người hồi xưa, Dinh tức là Huế, kinh đô. Gần Huế có Truồi, là nơi có sông nước xóm làng trù phú, có dâu ngọt, nước trong. Cho nên con gái Truồi nổi tiếng đẹp: “Gái Truồi làm bạn với trai Dinh/ Giả như Phu Văn Lâu sánh với núi Ngự Bình có xứng không?”
“Tiếng Huế chay” trong nhiều câu hò Huế sẽ làm các bạn trẻ “nổ não” không hiểu “nàng” nói gì với “chàng”?
Chờ anh bơ tuổi em cao/ Bơ duyên em lạt, bơ má đào em hư?
Ý cô gái còn ngần ngừ, chưa muốn gắn bó với chàng trai, có lẽ vì chàng ta không đem lại đủ yếu tố cho nàng tin tưởng. Cái tiếng “bơ” ở đây thiệt là khó chú thích, chú thích sao cũng không thể diễn tả hết cái dễ thương trong ngữ điệu mà chỉ người “Huế chay” mới cảm thấy được!
Để được thiếu nữ đặt lòng tin mà chờ đợi, thì phải làm sao? Yêu cầu của nàng rất giản dị:
Anh ăn ở làm răng cho đằm đẹ như rơm/ Đừng ở lờm xờm như muối lâu năm!
Ai ở nông thôn và đã từng nằm ổ rơm rồi mới biết rơm nó ấm và “đằm đẹ” như thế nào. Còn muối lâu năm, các bạn cứ lấy muối sống và cất trong hũ vài ba năm, lấy ra sẽ được một thứ thuốc dùng để trị thương rất tốt. Nhưng hình thù nó lởm chởm, gai góc hết sức, nếu chàng trai mà có ứng xử gai góc lởm chởm như vậy, thì không ai tin tưởng là phải rồi.
Khi tìm hiểu thì thận trọng, dè dặt như vậy, nhưng khi đã thương nhau, cô gái Huế tỏ ra có thừa can đảm:
- Thầy mẹ đánh em trăm roi vô một chỗ, ngàn roi cũng vô một chỗ
Máu đổ tràn lan
Em đây lẳng lặng lấy muối bóp tan
Theo nhau cho trọn đạo cả thế gian chê cười
- Thiếp nguyện với chàng có cơm ăn cơm, không có cơm ăn cháo
Có áo bận áo, không có áo thì bận da
Ở làm răng cho trên thuận dưới hòa
Như Phạm Công thuở trước với Cúc Hoa trọn niềm
Những câu hò Huế, gắn liền với kỷ niệm về những vùng quê thân thương mà tôi đã đi qua: Dạ Lê, Thanh Toàn, Vân Thê, Phù Lai, Bác Vọng… mãi là kho từ điển “tiếng Huế chay” mà mỗi lần đọc lại, nghe lại, càng nhớ như in lời ăn tiếng nói ở nơi thân thương nhất của mình.
Bởi vậy, đi đâu làm gì, lâu lâu mình cũng phải về quê hương, để nghe và nói “tiếng Huế chay” của mình!
T.T.M
(TCSH412/06-2023)
Được sự cho phép của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, từ ngày 7/10/2016, Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Viện Khảo cổ học mở hố thám sát thăm dò dấu vết lăng mộ vua Quang Trung tại gò Dương Xuân (Trường An, TP Huế) với diện tích 22 m2.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Di tích lịch sử Đình Dương Xuân Hạ nằm ở khu vực thuộc làng cổ Dương Hóa, với bề dày lịch sử trên dưới 500 năm.
HOÀNG NGỌC CƯƠNG
LGT: Trong quá trình tìm hiểu về sự nghiệp trước tác của Thái sư - Tuy Thịnh Quận công Trương Đăng Quế (1793 - 1865)(1), chúng tôi đã phát hiện ra bài tựa Ninh Tĩnh thi tập tự [寧靜詩集序: Bài tựa Tập thơ Ninh Tĩnh]; được in trong sách Trương Quảng Khê công văn tập [張廣溪公文集: Tap văn của ông Trương Quảng Khê], từ tờ 29a - 30a, tập sách hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, dưới ký hiệu R.315.
TÔN THẤT BÌNH
Kim Long (còn được gọi là Kim Luông) vốn là đất các chúa Nguyễn chọn nơi lập phủ từ năm 1636 đến 1687. Năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Trăn mới dời phủ về Phú Xuân, cách Kim Long chỉ 3 cây số, dọc theo bờ Sông Hương.
CAO THỊ THƠM QUANG
Kinh thành Huế là tòa thành ở Cố đô Huế, nơi đóng đô của vương triều Nguyễn trong suốt 140 năm từ 1805 đến 1945. Hiện nay Kinh thành Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào ngày 29 tháng 3 năm 1993.
TRẦN VĂN DŨNG
Vừa qua, sau khi tấm hình chụp về Ngọ Môn không có 8 bộ mái lợp ngói thanh lưu ly ở lầu Ngũ Phụng xuất hiện trên các trạng mạng xã hội đã lôi cuốn một lượng lớn độc giả quan tâm tìm hiểu, đã có nhiều ý kiến bình luận đưa ra khác nhau.
TRẦN VĂN DŨNG
Nhà vườn truyền thống là di sản đặc trưng tạo nên bản sắc văn hóa Huế, ảnh hưởng lớn đến việc hình thành tính cách, tâm hồn của con người xứ Huế.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Triều Sơn, một tên làng đã vào dạ người Huế bao đời nay, qua câu hò ru em vời vợi. Nhiều người Huế nghĩ rằng làng Triều Sơn chuyên buôn bán, với cụm từ “Triều Sơn bán nón” có trong bài hò ru em phổ biến.
THANH HOA - LÊ HUỆ
Chợ Đông Ba có vị trí đắc địa khi nằm ở trung tâm thành phố Huế, dọc bờ sông Hương, bên đường Trần Hưng Đạo, cách cầu Trường Tiền khoảng 100m về phía Bắc. Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân xứ Huế mà còn là nơi để du khách tìm hiểu văn hóa vùng đất Cố đô.
VÕ QUANG YẾN
Tạp chí Sông Hương đã có nhiều lần đề cập đến vấn đề sông Hương và cầu Trường Tiền, nhất là về năm xây cầu: Phan Thuận An, Phụ trương đặc biệt số 2; Quách Tấn, số 23; Hồ Tấn Phan, Nguyễn Thị Như Trang, số 29.
“Màu vàng lồng lộng chảy tràn lá xanh” là bộ sưu tập 11 chiếc áo dài xưa, bảo vật của gia đình Tiến sĩ Thái Kim Lan, gồm long bào Vua Khải Định, áo dài gấm the, áo mệnh phụ, áo lụa vàng, áo dài Hoàng thái hậu, áo mệnh phụ công nương, áo gấm xanh rêu, áo xiêm, áo dài lụa vân xanh... Được sự hỗ trợ của Viện Goethe tại Hà Nội lần này bộ sưu tập được đưa từ CHLB Đức về trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Huế, từ 18/5 đến 12/6/2016. Nghệ sĩ sắp đặt Veronika Witte, cũng từ CHLB Đức, trực tiếp thực hiện trong một không gian vô cùng lý tưởng. Tại phòng trưng bày chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh chủ nhân bộ sưu tập.
PHẠM HỮU THU
Những ai đã từng qua lại con đường Ngô Quyền, hẳn sẽ mừng vui khi thấy nơi này vừa xuất hiện một công trình mà nhiều người quen gọi là Bệnh viện quốc tế Trung ương Huế. Đây là mô hình xã hội hóa được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Y tế và Bệnh viện Trung ương Huế là đơn vị đầu tiên của cả nước (trong số 18 bệnh viện) được Chính phủ cấp tín dụng ưu đãi nhằm hiện thực hóa chủ trương này.
LÊ QUANG THÁI
Một thời trong quá khứ xa gần, người phương Tây đã từng gọi và như đặt tên cho Đô thành Phú Xuân Huế là “thành phố quan lại”.
Một số thông tin chung
Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015. Trong đó có cho biết:
Một số thông tin chung
Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Hội quán Quảng Tri hiểu một cách nôm na ý nghĩa về cái tên của hội quán này là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật... nhằm mở rộng sự hiểu biết.
LTS: Trong thời gian qua, báo chí trong nước đã phản ảnh về việc Hội Quảng Tri - nơi diễn ra các hoạt động khai trí ở Huế đầu thế kỷ 20 - được đề xuất phá dỡ, xây mới để làm …trụ sở UBND phường.
Đề xuất này khiến người dân Huế và những người yêu Huế nói chung, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ Huế nói riêng lo lắng, nhiều ý kiến đề nghị cần cẩn trọng.
ĐỖ XUÂN CẨM
TƯỞNG HAI LÀ MỘT, NHƯNG MỘT MÀ HAI
Nhắc tới cây Bồ đề, hầu như đa phần người dân xứ Huế có cảm giác rất thân thuộc.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Từ năm 1917, tạp chí B.A.V.H đăng bài “Cầu ngói Thanh Thủy” của R.Orban. Trong bài nghiên cứu này ngoài phần khảo tả cầu ngói, tác giả đã công bố bản dịch đạo sắc do vua Lê Hiển Tông ban khen bà Trần Thị Đạo, người có công đóng góp tiền của xây dựng cầu ngói Thanh Thủy.
NGUYỄN XUÂN HOA
Năm 1776, trong sáu tháng làm quan ở Huế, có điều kiện ghi chép những điều mắt thấy tai nghe, đọc kỹ văn thơ ở vùng đất Thuận Hóa để viết tập bút ký Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã đưa ra một nhận định mang tính tổng kết: Đây là vùng đất “văn mạch một phương, dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm!”.