Thủy Ba bắt cọp

15:56 27/01/2022

PHẠM XUÂN DŨNG  

Nếu ai vào Cố đô Huế mà đến thăm di tích thật đặc biệt, có một không hai là Hổ Quyền sẽ thấy vàng son một thuở của uy quyền phong kiến khi cho xây dựng đấu trường để hổ đấu với voi, phảng phất đấu trường La Mã cổ đại.

Cổng vào làng Thủy Ba Hạ

Nhưng chính Hổ Quyền ở kinh kỳ cuối thời nhà Nguyễn cũng phải nhờ đến tinh thần thượng võ của một làng từng nổi tiếng chế ngự chúa sơn lâm, thậm chí người dân nơi đây xưa kia từng trẩy kinh bắt cọp.

Nói thêm một chi tiết thú vị. Trong kho tàng chuyện trạng Vĩnh Hoàng trứ danh có một nội dung khá nổi tiếng liên quan đến cọp, đó là chuyện “Lỡ một buổi cày”. Mặc cùng trên đất huyện Vĩnh Linh nhưng làng Trạng khá xa làng Thủy Ba nhưng vẫn kể về cọp khá đậm nét. Nội dung như sau: Do đi cày sớm, bắt bò ra đồng, cày từ khi trời còn đêm đến rạng ngày mới phát hiện hóa ra mình bắt nhầm cọp đi cày, vì nó vào chuồng bò lẫn lộn với bò mà khi trời gần sáng thì không thấy. Người cày bèn quất một roi, con cọp đau quá, vọt chạy biệt tăm, vậy là lỡ một buổi cày. Phải là người gan lỳ và hài hước bậc nhất mới sáng tác ra được những câu chuyện dân gian như thế.

Hổ Quyền thu hút du khách


Vùng đất Thủy Ba nay thuộc xã Vĩnh Thủy, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị xưa kia vốn là tổng Thủy Ba. Nếu ở Hải Lăng, phía nam Quảng Trị có đại xã Trường Sanh thì ở phía bắc có đại xã Thủy Ba hình thành từ xa xưa, lúc cha ông ở ngoài kia vào đây khai sơn phá thạch, bốn bề là rừng rậm, phải thắng được thú dữ, đặc biệt là cọp, mới có thể sinh tồn, mới hy vọng dần dà an cư lạc nghiệp. Họ được trui rèn trước thiên nhiên khắc nghiệt để trở thành những con người mưu trí, bền bỉ và gan góc bậc nhất. Làng Thủy Ba nay có ba thôn là Thủy Ba Đông, Thủy Ba Tây và Thủy Ba Hạ là thôn xa nhất về phía tây Vĩnh Thủy.

Rồi một ngày hè đầy nắng vào mấy năm trước, tôi về với Thủy Ba, gặp người dũng sĩ cuối cùng bắt cọp Nguyễn Đăng Hạp của vùng quê này. Ông ngồi kể cho chúng tôi nghe chuyện ngày xưa có thật mà hương vị cứ như là cổ tích. Đúng là miền đất lạ lùng! Có vậy mới kết tinh nên một nghề độc nhất vô nhị trong thiên hạ, ấy là nghề bắt cọp. Sống với thiên nhiên khắc nghiệt, với ác thú dữ dằn thì người Vĩnh Linh mới có thể trui rèn đến vậy và khí chất mới luyện thành sắt thép. Ông hào hứng đọc vè Thủy Ba bắt cọp: “Mồng sáu sắc hạ vua ra/ Chiếu tờ xuống huyện đòi Thủy Ba đi liền/ Đò vô tận ải Thừa Thiên/ Dữ ma độc nước không yên chăng là.../ Thủy Ba đứng dậy cho đều/ Nghe tiếng ta reo hùm vọt dậy...”.

Nhìn cụ già đã bạc cả tóc râu sống qua trăm tuổi, tôi hình dung ra thời tráng niên oanh liệt của những người làm nên huyền thoại chế ngự cả chúa sơn lâm.

Hổ Quyền - Ảnh của tác giả Nguyễn Trung Thành


Theo sử sách cho thấy: Nhà vua “điều động” thợ săn Thủy Ba vào kinh đô bắt hổ để làm gì? Đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng, ở Huế có đấu trường Hổ Quyền được xây dựng rất quy mô ở xã Thủy Biều. Đây là nơi diễn ra các cuộc chiến sinh tử giữa voi chiến triều đình với hổ, cho vua quan và thần dân xem. Một cuộc đấu không chỉ có vài con hổ mà có khi là hàng chục con hổ được nhốt từ trước.

Thợ săn Thủy Ba bắt cọp để phục vụ cho các trận đấu ở Hổ Quyền. Đoàn thợ săn cọp của Thủy Ba gọi là đoàn Vọng Thành. Trong bài viết “Tỉnh Quảng Trị” in trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ (B.A.V.H) năm 1921 của đoàn Công sứ Pháp A. Laborde chép rằng: “Tại làng Thủy Ba Thượng ngày nọ, có một con quạ bay ngang và làm rơi một cái xương người. Một đồng cốt cho rằng đó là xương của một vị thần tên Mai Quý Đông. Lập tức người ta lập đền thờ thần, và thần thường nhập vào cốt đồng để dạy cho dân chúng nghề bắt hổ”. Do đó dân Thủy Ba nổi tiếng có tài bắt hổ, và luôn được giao nhiệm vụ bắt hổ để giao đấu với voi triều đình. Đôi khi dân Thủy Ba mang đến Huế luôn cả cái bẫy hổ để dâng cho vua cái vinh dự được tự tay giết con hổ sa bẫy. Trận đấu đầu tiên được tổ chức tại Hổ Quyền năm 1830, dưới thời vua Minh Mạng, còn trận đấu cuối cùng được tổ chức năm 1904 dưới thời vua Thành Thái.

Cách đây mấy tháng chúng tôi lại đến thăm một người quen cũ mà cả vùng đất này hầu như ai cũng biết, đó là ông Nguyễn Đăng Hạp, 105 tuổi, người từng theo dân làng bắt cọp và còn đặt vè Thủy Ba bắt cọp rất hay, được gần xa truyền tụng. Ông vừa mất mới qua 49 ngày, hương khói còn trên bàn thờ tưởng nhớ một nhân vật dân gian độc đáo. Thuở xưa vua quan lệnh về cho dân làng Thủy Ba bắt cọp, trong khi thiên hạ nghe cọp thì nổi sốt tìm mọi cách mà tránh còn dân làng này thì tìm cọp để bắt, đối đầu với muôn vàn khó khăn, nguy hiểm. Hậu duệ ông Nguyễn Đăng Hạp là anh Nguyễn Đăng Hoàn vẫn còn nhớ nhiều điều mà cha ông từng kể.

Rời nhà ông Hạp, chúng tôi tiếp tục tìm đến một nhân vật hiếm hoi còn lại biết chuyện săn cọp xưa kia nay tuổi đã gần 90 là ông Nguyễn Thế Đại. Mặc dù tuổi cao sức yếu, trí nhớ giảm sút nhưng khi nhắc lại chuyện xưa tâm trạng ông phấn chấn hẳn lên. Nhưng phải nói là chuyện bắt cọp làm ông hào hứng nhất và kể rõ ngọn ngành chuyện xưa có thật mà nghe như cổ tích, muộn nhất khi ông còn ở tuổi thiếu niên về một thời gian khổ, nguy nan bậc nhất mà cũng hào hùng bậc nhất. Phải công nhận ông Nguyễn Thế Đại có trí nhớ khá tốt, ông kể say sưa và chi tiết, người nghe như được xem lại một bộ phim sinh động về chuyện bẫy cọp.

Ông Đại kể rằng: “Khi có lệnh của quan trên ban xuống phải bắt được cọp nộp cho triều đình thì cả ba làng Thủy Ba: Thủy Ba Hạ, Thủy Ba Thượng và Thủy Ba Tây phải nhất tề hưởng ứng, trăm người như một, không được làm hỏng việc lớn của triều đình, ai chậm trễ, lười nhác hoặc không nghe theo ắt bị trị tội nặng. Hương lý họp dân ba làng lại, phân công cụ thể như một trận đánh, mỗi bộ phận một việc. Nhóm thì được phân công trực chiến, gồm các tráng đinh khỏe mạnh, can đảm với vũ khí giáo mác sẵn sàng ứng chiến, đi đầu vòng trong để bao vây cọp, vòng ngoài thì những người trung niên, phụ nữ thì làm nhiệm vụ hậu cần. Chỉ huy các nhóm là các “chiến binh” từng trải không chỉ gan dạ mà còn rất bình tĩnh và mưu trí. Hiệu lệnh ban ra nhất hô bá ứng. Quan viên làng xã gồm chánh tổng, lý trưởng túc trực. Phía trên có quan phủ, huyện theo dõi tình hình. Khi các trinh sát thường chọn những dũng sĩ gan góc nhất cho biết cọp đã mắc bẫy ở phía cuối làng thì nhiều nhóm được chia các ngả đường theo dấu vết cọp, tiếng địa phương gọi là “dọi dấu”. Khi biết chắc vị trí cọp mắc bẫy thì các toán người bao vây, lăm lăm giáo mác và giăng lưới làm bằng dây thừng to, chắc, rồi khua chiêng gõ trống, tăng nhuệ khí cho đoàn quân bắt cọp và uy hiếp chúa sơn lâm, khiến “ông ba mươi” hốt hoảng, buộc phải xuất đầu lộ diện. Khi đã xác định cọp bị sa bẫy, hoặc bị thương thì lùa vào lưới, rồi đưa vào cũi sắt, nộp quan trên...”. Nói thì có vẻ không mấy phức tạp nhưng thực tế rất gian nan, nguy hiểm. Bởi xưa nay ai cũng tránh cọp, nay lại tìm cọp mà tới thì muôn phần nguy hiểm. Mặc dù đã chuẩn bị chu đáo, năm nào cũng bắt cọp nhưng sự cố vẫn có khi xảy ra. Chính ông Đại cho biết xóm trên của làng Thủy Ba Hạ có người vì một giây sơ suất đã bị cọp “bả” (tát) một phát trọng thương, máu me lênh láng, may suýt mất mạng.

Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An trận đấu này: “Voi cái bước vào đấu trường có vẻ hiên ngang, đi qua đi lại trước mặt cọp không một chút sợ hãi, vua Thành Thái khen: “Con này can đảm lắm”. Nhưng bỗng chốc, cọp nhảy lên trán voi, voi hất mạnh, cọp rơi xuống. Cọp lại nhảy lên bấu vào chỗ cũ. Voi tức giận, rống lên, vụt chạy đến dùng đầu đẩy mạnh cọp vào thành đấu trường, dùng sức mạnh ngàn cân vừa húc, vừa ép thật sát. Khi voi ngẩng đầu lên, cọp té xuống đất, voi dùng chân chà cọp đến chết...”. Như mọi trận đấu hàng năm, kết thúc bằng chiến thắng của voi, tượng trưng cho sức mạnh tượng binh, một thế mạnh của lục quân xứ Đàng Trong và cả uy quyền của quân vương. Bởi thế trước mỗi trận đấu, cọp bị nhổ răng và cắt hết nanh vuốt. Dù vậy các trận đấu diễn ra vẫn ác liệt và hấp dẫn giữa kỳ phùng địch thủ.

Câu chuyện làng bắt cọp nổi danh theo thời gian rồi từ từ lùi vào dĩ vãng. Nhưng tinh thần quật cường, bất khuất và trí tuệ thông minh của người dân nơi đây sẽ chảy mãi trong huyết quản mỗi người làm nên hào khí đất đai và phẩm giá riêng biệt của người Thủy Ba đã từng khuất phục cả chúa sơn lâm.

P.X.D  
(TCSH396/02-2022)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Ở thời điểm năm 1987, GS Trần Quốc Vượng là người đầu tiên nêu quan điểm cần đổi mới tư duy lịch sử, nhận thức đúng sự thật lịch sử và thảo luận tự do, dân chủ, rộng rãi, trong đó có vấn đề xem xét lại nhà Nguyễn và thời Nguyễn.

  • ĐỖ XUÂN CẨM 

    Thành phố Huế khác hẳn một số thành phố trên dải đất miền Trung, không chỉ ở các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền, thành quách… mà còn khác biệt ở màu xanh thiên nhiên hòa quyện vào các công trình một cách tinh tế.

  • KỶ NIỆM 130 CHÍNH BIẾN THẤT THỦ KINH ĐÔ (23/5 ẤT DẬU 1885 - 23/5 ẤT MÙI 2015)

    LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Huế, trong lịch sử từng là vùng đất đóng vai trò một trung tâm chính trị - văn hóa, từng gánh chịu nhiều vết thương của nạn binh đao. Chính biến Thất thủ Kinh đô 23/5, vết thương lịch sử ấy ăn sâu vào tâm thức bao thế hệ người dân Cố đô.

  • KIMO 

    Café trên xứ Huế bây giờ không thua gì café quán cốc ở Pháp, những quán café mọc lên đầy hai bên lề đường và khi vươn vai thức dậy nhìn xuống đường là mùi thơm của café cũng đủ làm cho con người tỉnh táo.

  • LTS: Diễn ra từ 10/6 đến 22/6/2015, cuộc triển lãm “Thừa Thiên Huế: 90 năm báo chí yêu nước và cách mạng” do Hội Nhà báo tổ chức tại Huế, trưng bày các tư liệu báo chí hết sức quý giá do nhà báo, nhà nghiên cứu Dương Phước Thu sưu tập, đã thu hút đông đảo công chúng Huế. Nhiều tờ báo xuất bản cách đây hơn thế kỷ giờ đây công chúng được nhìn thấy để từ đó, hình dung về một thời kỳ Huế đã từng là trung tâm báo chí của cả nước. Nhân sự kiện hết sức đặc biệt này, Sông Hương đã có cuộc phỏng vấn ngắn với nhà nghiên cứu Dương Phước Thu.

  • MAI KHẮC ỨNG  

    Một lần lên chùa Thiên Mụ gặp đoàn khách có người dẫn, tôi nhập lại để nghe thuyết minh. Nền cũ đình Hương Nguyện trước tháp Phước Duyên được chọn làm diễn đài.

  • LÊ QUANG THÁI

    Việt Nam giữ một vị thế trọng yếu ở ngã tư giao lưu với các nước của bán đảo Ấn Hoa và miền Viễn Đông châu Á.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                            Tùy bút

    Mối cảm giao với Túy Vân khởi sự từ sự tạo sinh của đất trời trong lớp lớp mây trắng chảy tràn, tuyết tô cho ngọn núi mệnh danh thắng cảnh thiền kinh Cố đô.

  • PHẠM THÁI ANH THƯ

    Trong giai đoạn 2004 - 2013, nền kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế (TTH) đạt mức tăng trưởng khá cao so với mức bình quân của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch hợp lý theo hướng du lịch, dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đồng hành với mức tăng trưởng đó, nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước đã đến đầu tư tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Một số nhà nghiên cứu đã chú tâm tìm kiếm nơi an táng đại thi hào Nguyễn Du ở Huế, sau khi ông qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16/9/1820).

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN 

    Sông Hương vừa là cột mốc làm chứng vừa là biểu tượng cho dáng đẹp sương khói, “áo lụa thinh không” của lịch sử thăng trầm về hình bóng Huế.

  • ĐỖ XUÂN CẨM

    1. Đôi điều tản mạn về Liễu
    Người Á Đông thường coi trọng luật phong thủy, ngũ hành âm dương, họ luôn chú trọng đến thiên nhiên, cảnh vật và xem đó là một phần của cuộc sống tinh thần.

  • TRƯỜNG PHƯỚC  

    Đất nước hòa bình, thống nhất, thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đã 40 năm. Những thành tựu là có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, muốn phát triển, công cuộc đổi mới cần được thúc đẩy một cách mạnh mẽ có hiệu quả hơn nữa.

  • LƯU THỦY
     
    KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ (26/3/1975 - 2015)

  • LÊ VĂN LÂN

    Một mùa xuân mới lại về trên quê hương “Huế luôn luôn mới” để lại trong tâm hồn người dân Huế luôn trăn trở với bao khát vọng vươn lên, trả lời câu hỏi phải tiếp tục làm gì để Huế là một thành phố sáng tạo, một đô thị đáng sống. Gạt ra ngoài những danh hiệu, kể cả việc Huế chưa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, vấn đề đặt ra đâu là cái lõi cái bất biến của Huế và chúng ta phải làm gì để cái lõi đó tỏa sáng.

  • THANH TÙNG

    Ở Việt Nam, Huế là thành phố có tỉ lệ tượng lớn nhất trên diện tích tự nhiên và dân số. Không chỉ nhiều về số lượng mà còn đạt đỉnh cao về chất lượng nghệ thuật, phong phú về đề tài, loại hình, phong cách thể hiện.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Chùa Hoàng giác là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng nhất xứ Đàng Trong, được đích thân chúa Nguyễn Phúc Chu cho tái thiết, ban sắc tứ vào năm 1721. Tuy nhiên, vì trải qua binh lửa chiến tranh chùa đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Dựa trên nguồn sử liệu và kết quả điều tra thực tế, chúng tôi cố gắng để phác thảo phần nào nguồn gốc ra đời cũng như tầm quan trọng của ngôi chùa này trong đời sống văn hóa cư dân Huế xưa với một nếp sống mang đậm dấu ấn Phật giáo.

  • TRẦN VĂN DŨNG

    Cách đây đúng 500 năm (1514 - 2014), tại ngôi làng ven sông Kiến Giang “nơi cây vườn và dòng nước cùng với các thôn xóm xung quanh hợp thành một vùng biếc thẳm giữa màu xanh mênh mông của cánh đồng hai huyện”(1) thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cậu bé Dương Văn An, sau này đỗ Tiến sĩ và làm quan đến chức Thượng thư được sinh ra đời.

  • DƯƠNG ĐÌNH CHÂU – TRẦN HOÀNG CẨM LAI

    Danh lam thắng cảnh, nơi cảnh đẹp có chùa nổi tiếng, khái niệm này càng rõ hơn ở Huế.