Thương nhớ hoa đào

09:36 02/07/2009
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.

(Ảnh: Internet)

Dù tư gia vô cùng nghèo khó, chàng vẫn nuôi chí học hành. Khép mình vào khoa cử, chàng đã có lúc làm khổ nhục cả hình hài của mình. Học ban ngày, chàng cột chân vào án thư bằng một sợi dây thừng đen. Học ban đêm, để khỏi buồn ngủ, chàng cột tóc ngược lên xà nhà bằng một sợi dây thừng trắng. Một chiếc dùi thép cũng được chàng đặt rèn ở lò rèn lão Tư Hoa, dài cỡ hai gang tay người lớn. Khi quá buồn ngủ, chàng sẽ dùng nó chọc mạnh vào đùi. Ba năm trời ôn luyện, hai đùi chàng đầy những vết sẹo đen đã cũ. Chồng lên những vết sẹo đen là những vết sẹo đỏ mới tươi lõm hình đầu dùi còn chưa khép miệng.

Mất chồng từ khi còn rất trẻ, mẹ Từ Huệ đã ở vậy nuôi chàng. Ngày bắt ốc mò cua, đêm lách cách dệt vải, có áo quần ấm, có thức ăn ngon, mẹ thường dành riêng cho chàng. Vì vậy, dù nhà nghèo khó, Từ Huệ vẫn được nuông chiều. Thương mẹ, chàng quyết chí lập thân.

2. Từ khi còn rất trẻ ở bến sông, Từ Huệ đã phải lòng người con gái út của ông lão thuyền chài. Nàng tên là Ba. Trong đôi mắt si tình của Từ Huệ, nàng Ba là người con gái đẹp nhất vùng. Là đứa con gái của sông nước, da nàng có màu nâu sáng của phù sa Hoàng Sơn và màu nước xanh mạt ly. Đôi mắt nàng khi nhìn Từ Huệ sáng hoang dại như những vì sao trời đêm đêm rơi xuống bến sông Thai. Tóc nàng Ba dài thênh thang, sợi to như những sợi lưới mà cha nàng vẫn dùng để đánh bắt cá ở khúc sông này. Từ Huệ yêu nàng lắm, nhưng chàng không dám xao nhãng việc học hành. Những lúc học quá nhọc mệt, chàng tìm ra bến sông để được nhìn thấy bóng hình yêu dấu. Nàng Ba đang giúp cha đánh cá. Biết có Từ Huệ trên bến, nàng nghịch ngợm lấy mái chèo hất nước về phía chàng. Từ Huệ âu yếm dõi theo con thuyền chài trôi xuôi chầm chậm theo dòng nước. Âu yếm ngắm mái tóc dài của nàng Ba lúc này đã như một vệt đen xanh mờ ở cuối con thuyền.

Mùa xuân năm ấy, hoa đào nở đỏ cả một khúc sông. Chưa năm nào hoa đào làng Thai lại nở đẹp như vậy. Màu hoa hực hở trong nắng chiều vàng mật ong như mời gọi trai gái tự tình. Từ Huệ không làm sao học được. Bài “Bạch Đằng giang phú” ngày thường chàng rất mê, giờ bỗng nhạt thếch như nước ốc. Đầu óc chàng lởn vởn hình ảnh nàng Ba. Nụ cười ngà ngọc của nàng làm trái tim chàng buốt đau, miệng mặn đắng cơn thèm khát... Mở sợi dây thừng dưới chân, Từ Huệ vươn vai kêu răng rắc. Chàng khép nhanh sách lại, và bước vội ra vườn. Ở một góc khuất tăm tối của khu vườn tạp, Từ Huệ ngạc nhiên khi nhìn thấy nàng Ba đã đứng đó tự bao giờ. Không đợi Từ Huệ nói câu nào, nàng Ba đã vồ vập ôm choàng lấy chàng, giọng đắm đuối “Đêm nào... đêm nào..., thiếp cũng trốn cha lên đây để được nhìn thấy chàng. Những bài học khi chàng đọc to, thiếp đã thuộc nằm lòng. Thiếp sợ tình thiếp làm chàng bịn rịn mà xao nhãng văn chương. Nên từ bấy đến giờ lòng đã trộm thầm yêu thương chàng mà lời chưa dám nói...”. Đắm đuối ngắm gương mặt nàng Ba, Từ Huệ nói giọng run run “Nàng đã nói hộ lòng ta. Ta từ lâu cũng đã thương thầm trộm nhớ nàng, mà lòng còn e dè, chưa biết lòng nàng thể nào”. Dưới những hàng cây tăm tối trong khu vườn của người cha để lại, Từ Huệ hôn nàng Ba. Hai tấm thân run rẩy nép vào nhau như không muốn chia lìa.

3. Kể từ hôm ấy, cứ chiều chiều, Từ Huệ lại tìm ra bến sông. Chàng ngồi lặng lẽ dưới gốc cây liễu nhỏ, ngắm dáng nàng Ba đang giúp cha đánh cá. Mặt sông buổi chiều nhuôm nhuốm ráng đỏ. Sắc nước như gương mặt nàng Ba chuếnh choáng hồng. Lũy tre xanh miệt mài in bóng xuống dòng nước. Tiếng mái chèo xua cá vỗ vào mạn thuyền tạo ra những âm ba dồn dập khắp mặt sông rộng. Chốc chốc, nàng Ba lại xoay lưng về phía Từ Huệ, cái đáy lưng ong của nàng chập chờn gần xa khiến lòng Từ Huệ như mê muội.

Yêu nàng Ba, Từ Huệ quyết nuôi chí lập thân. Chàng ngày đêm miệt mài ôn luyện. Buổi sáng, chàng buộc chân vào án thư. Buổi đêm, chàng buộc tóc lên xà nhà. Cây dùi thép để bên ghế ngồi, cán đã mòn vẹt. Hai đùi chàng đầy những vết sẹo đen nhằng nhịt.

Thấm thoát đã mấy năm trôi qua, ngày lên đường ứng thí đã gần kề. Đêm cuối trước khi lên đường, Từ Huệ hẹn nàng Ba ở bến sông. Đêm ấy sương lạnh. Trăng muộn. Trong đêm tối ngàn cánh hoa đào có màu nâu sẫm nở âm thầm trước cuộc chia ly. Họ ngồi bên nhau dưới gốc cây liễu nhỏ. Bờ vai nàng Ba ướt đẫm sương đêm. Hơi ấm từ thân thể thanh xuân của nàng tỏa ra dìu dịu. Từ Huệ nói “Mai đã là ngày ta lên đường. Thi cử là chuyện học tài thi phận. Đi xa, lòng nhớ nàng, vậy mong nàng gìn vàng giữ ngọc cho trọn vẹn tình ta”. Nép người vào Từ Huệ, nàng Ba lưu luyến “Da thịt thiếp dầu có tan nát cũng là để dành riêng cho chàng. Đã là bậc bố kinh, lẽ ra phải đợi ngày chàng vinh quy thì điều ấy cũng chưa muộn. Nhưng đi xa sóng cả, dâu bể khôn lường, ai biết ngày sau thế nào. Vì vậy mà đêm nay thiếp nguyện hiến dâng cho chàng”. Nói xong, nàng Ba cởi xiêm y, gỡ chiếc trâm bằng thân cây kinh trên tóc đặt trên cành hoa đào. Từ Huệ lúng túng, trái tim chàng như con chim hồng đập cánh dữ dội muốn xổ tung ra khỏi lồng ngực nhức nhối. Cảm kích, Từ Huệ bảo “Tình nàng đã vậy, lòng ta yêu thương nàng, dầu da thịt ta có tan nát thì tình này nguyện vẫn nồng say”. Trăng lên đã cao. Ngàn cánh hoa đào bên bến sông nở lách tách. Họ nằm xuống trên mảnh đất mềm ấm phù sa. Từ Huệ nhìn thấy ánh trăng trôi trên sông lớn, dòng đào hoa lấp lánh ánh sáng chảy về tận cuối nẻo xa. Thân thể nàng Ba lồ lộ dưới ánh trăng xanh biếc. Gương mặt nàng trắng nõn nường như đóa quỳnh hương nở vội vàng trong đêm cuối năm. Động hoa đào như trời đất mở ra miên man suốt con đường tình ái của Từ Huệ. Chàng run rẩy không phải trong cái lạnh của ánh trăng đêm thâu mà là da thịt diễm lệ của nàng mời gọi từng cơn đê mê. Từ Huệ vùi đầu vào ngực nàng Ba, chàng nghe tiếng tim nàng đập vội vàng từng nhịp thắc thỏm... Hơi ấm từ khuôn ngực trần của nàng tỏa ra nóng bỏng môi Từ Huệ. Chàng miết đôi môi lên làn da như lửa cháy của nàng. Gió thổi rất mạnh, hoa đào rụng từng đợt lớn phủ kín trời đất. Trong đêm tối, màu hoa chợt đỏ rờ rỡ soi sáng đôi tấm thân tình ái mà giờ đây đã thỏa nguyện khát khao.

4. Từ Huệ trở người ngồi dậy. Trời đã tờ mờ sáng. Người giúp việc nhen lửa, chuẩn bị chuyên trà cho chủ nhân. Sáng nào, chàng cũng thích ngồi bên ấm trà mạn sen, uống từng ngụm nhỏ và suy nghĩ miên man. Giá như ngày ấy chàng thôi đừng theo giấc mộng công hầu, đừng mê mải trên đường hoạn lộ, thì đời chàng đâu có mất nàng. Sau ngày Từ Huệ ra kinh ứng thí, nàng Ba vò võ chờ đợi. Một năm, hai năm rồi ba năm... ba lần cá bống hoa vàng đẻ trứng, tin chàng vẫn bặt tăm. Chiều chiều, nàng Ba ngồi dưới gốc cây liễu đợi chờ Từ Huệ. Cứ thế mười năm nhạn vẫn mù tăm. Cho đến ngày có một người lái buôn đi qua làng tin cho hay chàng nay đỗ đạt, gia thất đề huề, chức trọng quyền cao... Năm ấy hoa đào chưa bao giờ lại nở đẹp đến như vậy. Cả bến sông đỏ ôi ối màu hoa. Hoa rụng đầy một khúc sông lớn, khiến màu nước cũng đỏ ối dưới trời chiều. Nàng Ba đi thẫn thờ dưới những cội hoa đào, nàng không biết đôi chân đưa nàng đi đâu. Gạt nước mắt, nàng bỗng thấy mình đứng ở nơi mà ngày xưa nàng đã trao thân cho Từ Huệ không một chút đắn đo. Dấu nằm vẫn còn đây. Vẫn còn đây màu nước này, màu trời kia, và cả những cánh hoa đào ngày cũ, nhưng người dấu yêu thì đã chia lìa. Cởi phăng xiêm áo lồ lộ, rút cây trâm kinh ngày trao thân cho Từ Huệ, nàng Ba bẻ đôi chiếc trâm ném xuống mặt sông phủ đầy cánh hoa đào... Từ ấy, nàng bặt tăm, không ai còn thấy nàng nữa. Có người bảo thấy nàng đi khỏi làng cùng với gã lái buôn và vì muốn chiếm hữu nàng gã lái buôn cơ mưu ấy đã tung tin thất thiệt.

Ngày nàng Ba mất tích, Từ Huệ còn đang dong ruổi trước hòn tên mũi đạn. Chàng tuân lệnh vua đánh dẹp giặc ngoài biên ải. Đêm đêm bên đống lửa trại, lòng chàng tha thiết nhớ nàng Ba. Nhớ đôi mắt nàng sâu thăm thẳm, cái đáy lưng ong dịu dàng của con nhà sông nước, khí chất mãnh liệt, không từ nan, khi đã dâng hiến là dâng hiến đến tận cùng. Bao năm chinh chiến, bao nhiêu sắc nước hương trời, bao nhiêu người con gái đẹp không hề làm lòng Từ Huệ mảy may xao động. Suốt đời mình, chàng chỉ yêu có mỗi nàng Ba. Khối tình si ấy, chàng đã mang theo vào chốn nồi da xáo thịt. Hình ảnh nàng là niềm hy vọng giúp chàng vượt qua bao nhiêu hiểm nguy, đói rét cơ hàn.

5. Tin nàng Ba mất tích đến Kinh sau ngày Từ Huệ từ biên ải trở về. Chàng tức tốc quy cố hương mà lòng xót xa. Ngày nào chàng vượt qua ải Vân Quan nuôi giấc mộng công hầu, ngày nào trở về nước mắt rơi ướt đẫm ngàn dâu xanh... Tất cả diễn ra như một giấc mộng đời chưa kịp vỡ tan. Sau khi viếng mộ mẹ, Từ Huệ tìm ra bến sông xưa. Vẫn còn đây cây liễu ngày cũ, giờ đã cao sừng sững, tán là tỏa rộng cả một góc trời. Còn đây chỗ ngồi chiều chiều chàng ngắm nàng Ba giúp cha đánh cá. Con nước ngày cũ giờ đã trôi về đâu để mối tình xưa xé nát trái tim chàng. Từ Huệ rống lên một tiếng lớn như con cọp dữ bị thương, đôi hàng nước mắt chảy ướt đẫm gương mặt từng trải ám màu thuốc súng. Sẵn giấy, chàng viết một bài Từ :

Nhớ thương ai hề ngày cũ bây giờ còn đâu
Tình xao xuyến hề bao năm mong chờ
Nàng xa vắng hề tim ta đớn đau
Nhìn mấy nước hề bao nhiêu luyến lưu
Thương ôi
Con nước ngày cũ hề chảy hoài
Mà nay hề vắng nàng
Ta hề con thuyền bạc bến
Ngày trở về hề xót xa bụi mù
Lưng ngựa chiến chinh hề chưa từng rơi nước mắt
Mà nay bến xưa hề ta khóc nàng

Viết xong bài Từ, Từ Huệ vừa đọc to, vừa khóc rống lên rồi xé nát tờ giấy lớn vứt xuống mặt sông buồn ảm đạm như gương mặt thê nhi. Chàng ngồi đó rũ rượi cho đến khi đêm xuống.

6. Treo ấn từ quan. Từ Huệ ở lại quê nhà. Chàng sống thui thủi một mình như anh chàng khóa nghèo ngày xưa. Năm ấy, mùa xuân đến sớm, nắng xuân mênh mang đổ vàng như tơ lụa. Hoa đào được tiết trời nở kín cả một triền sông vắng. Hoa nở đỏ thắm thiết khiến vết thương lòng Từ Huệ chưa kịp lành, bật máu. Ôi mới đó mà đã một đời người. Từ Huệ lặng lẽ tìm ra bến sông. Ngồi dưới cây liễu xưa chàng soi gương mặt mình xuống dòng nước ngập cánh hoa đào. Mái tóc bạc trắng của chàng lững lờ trôi trôi trên màu hoa đỏ bồng bềnh...

Huế ngày mưa lớn tết Giáp Thân
N.X.H

(179-180/01&02-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ HỮU KHOADưới gốc cây Sau Sau, thứ cây có thân gỗ nhưng muốn mang đốt cũng không cháy, dùng làm gỗ thì nhanh mục nên mới được sống tươi tốt ở vùng rừng thường xuyên được dân sơn tràng lui tới. Dũng trong thế ngồi co quắp, hai bàn tay giấu dưới vạt áo mưa để vừa tự sưởi ấm cho cơ thể vừa giảm tiết diện để tránh những hạt mưa lạnh buốt lọt qua tán lá rậm rạp, những hạt mưa mùa không biết mệt mỏi cứ rơi và rơi…

  • NGUYỄN VIỆT HÀCó một ngày rất âu lo đã đến với thằng béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi. Trước đấy hình như duy nhất một lần cái cảm giác bất an này cũng đã đến. Láng máng không thể nhớ.

  • MA VĂN KHÁNGKhi những người U Ní ở vùng biên sau mấy tháng trời đông giá, ngồi trong nhà đánh cuốc, sửa dao, đan lát bước ra khỏi căn nhà đất dày kín như cái kén, đặt chiếc vai cày lên cổ con trâu, đi những đường cày đầu tiên, hoặc rủ nhau đi bán công khắp các nơi trong vùng thượng huyện Bát Xát, thì hoa gạo bắt đầu nở.

  • PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!

  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.