Thuở ấy thơ cũng như người

16:20 01/06/2011
ĐÔNG HÀHuế không phải là đất ở để thương mà chỉ là đất đi để nhớ. Nhiều thế hệ học sinh sinh viên đã đến, ở lại nơi này và rồi sau đó lại khăn gói ra đi. Nhưng đi không đành, nên thường để lại bằng những nỗi lòng trải dài theo khói sương bãng lãng của đất trời cố đô. Thành thử có một thời, Huế nên thơ trong mỗi áng văn chương của những người trẻ tuổi là vì vậy.

Nhà thơ Đông Hà - Ảnh do tác giả cung cấp

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Từ rất lâu, những nhóm bạn văn chương chẳng hiểu sao lại cứ tự hình thành nên đâu đó trong lòng Huế. Những năm tháng đấu tranh xuống đường, đêm đêm trong một ngôi nhà đẫm tình hương, một thế hệ các nhà thơ, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng thuộc bậc “tiền bối” đã hào sảng cất lên những câu thơ yêu đời sống, yêu quê hương thiết tha. Từ bấy đến nay, nổi trôi qua nhiều thời vận, nhưng lúc nào trong sâu thẳm những đêm Huế, chất hào sảng của thi ca vẫn đi về đâu đó trên những con phố quen.

Và chúng tôi cũng đã từng có một thời như thế. Không thể so sánh với những bậc tiền bối trước đây, nhưng đã có một thời, nhóm bạn trẻ yêu văn chương chúng tôi đã sống hết mình với tình yêu chữ nghĩa không so đo tính toán.

Khởi đầu từ Câu lạc bộ Văn học trẻ của Nhà văn hóa Thanh niên Huế, những gương mặt non nớt bỡ ngỡ từ các trường cấp ba, đại học và một số thành viên lớn tuổi nhưng còn vương vấn tuổi hoa niên đã cùng nhau ngồi lại trong quán cà phê Áo Trắng ven bờ sông Hương thơ mộng. Chính tình yêu văn chương đã gắn kết những tâm hồn lại với nhau. Khi nhà văn Đoàn Thạch Biền, chủ biên tập san Áo Trắng lặn lội từ Sài gòn ra tìm gặp những cây viết mới manh nha trên từng trang viết đâu đó ở các tập san dành cho tuổi mới lớn của những năm đầu thập niên 90 thế kỷ trước, tất cả chúng tôi mới được tập hợp nhau thật trọn vẹn.

Từ đó bắt đầu những cuộc chơi. Trưởng nhóm Gia đình Áo Trắng bấy giờ là nhà thơ Phạm Nguyên Tường, lúc đó mới chỉ là cậu sinh viên Y khoa năm thứ hai. Cùng với ba thành viên khác là Nguyễn Tuất, Phan Gia Vỹ và Đặng Như Phồn, trong vai trò Trưởng GĐAT, Phạm Nguyên Tường đã “lùng sục” hết tất cả những sân trường áo trắng, nơi nào có gương mặt vừa xuất hiện trên một trang báo nào cũng đều được các anh tìm đến. Sau nụ cười làm quen, chỉ cần gọi đúng tên bút danh là đã quá đủ cho một lời chào hỏi. Mọi người họ cứ thế mà đến với nhau một cách hồn nhiên không ngần ngại.

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Gia đình Áo Trắng Huế những năm 96 -99. Hàng trước (từ trái sang): Lê Tấn Quỳnh, Lê Vĩnh Thái, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Bảo Trực, Đông Hà, Hoa Lý, Lê Minh Khôi; Hàng sau: Lê Trọng Nghĩa, Ngàn Thương, Phạm Nguyên Tường.


Những năm tháng đó, sáp nhập từ CLB Văn học trẻ vào GĐAT, chúng tôi càng gắn bó với nhau hơn. Những cuộc chơi vì thế cũng nồng nàn máu lửa hơn. Hàng tháng với những buổi sinh hoạt định kỳ, các thành viên ngày một hiểu và gắn bó với nhau hơn. Ở đó, có thể điểm mặt chỉ tên các gương mặt đã một thời tung hoành trên các trang báo như Phạm Nguyên Tường, Nguyễn Tuất, Phan Gia Vỹ, Đặng Như Phồn, Lê Tấn Quỳnh, Nguyễn Lãm Thắng, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm, Nguyễn Phan Hoài Niệm, Phan Bùi Bảo Thy, Đông Hà, Lê Vĩnh Thái… Những cái tên với những sáng tác đã phần nào làm rạng danh văn chương lứa tuổi học đường với bạn bè khắp cả nước.

Làm sao quên được những buổi gặp gỡ bạn bè phương xa. Các cuộc giao lưu với bút nhóm Biển Xanh (GĐAT Quy Nhơn), GĐAT Cần Thơ, GĐAT Hà Nội… Đi đến đâu, chỉ cần xưng tên cùng với địa danh nơi mình ở, bạn bè chưa một lần gặp gỡ bỗng trở nên thân thiết lạ kỳ. Những ngày tháng đó, những cuộc rong chơi qua các miền đất lạ đã để lại cho mỗi chúng tôi một mảnh ký ức mà sau này lớn lên không tìm đâu ra được. Hiểu biết về vị trí địa lý có thể không nhiều, những trang sử hào hùng của từng vùng đất có thể được tích lũy trong suốt một đời người, nhưng ký ức non xanh của những ngày tháng ấy thì không bao giờ có thể gặp lại. Chúng tôi gọi buổi ấy có những mối tình kỳ lạ được đặt tên Tình - Thì - Là. Chỉ thì là… mà thôi, chưa thành nổi một cái tên để xếp lại một quá khứ quá nhiều ước ao và khát vọng.

Mười lăm năm, hai mươi năm chưa phải là cột mốc ghê gớm của một thời đại, nhưng lại có ý nghĩa vô cùng với những ai đã từng một thời gắn bó với những bút nhóm làm nên tình yêu gắn bó cùng văn chương. Nói như nhà văn Đoàn Thạch Biền trong một lần gặp lại gần đây, rằng nhà văn mừng vô cùng khi những tâm hồn bé con yêu văn chương thời ấy, giờ vẫn còn tiếp nối trên con đường chữ nghĩa. Nhà thơ Phạm Nguyên Tường từ Trưởng GĐAT Huế giờ đã trở thành chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam dù bên anh lúc nào cũng canh cánh nỗi lo của một vị Phó Giám đốc Trung tâm Ung bướu Bênh viện Trung ương Huế. Bác sĩ Đặng Như Phồn cũng còn nặng nợ với thi ca. Lê Tấn Quỳnh ngày càng chín hơn trong những sáng tác của mình. Đông Hà trở thành cô giáo dạy văn và tất nhiên vẫn đồng hành cùng chữ nghĩa, Lê Vĩnh Thái giờ đang là biên tập viên Tạp chí Sông Hương… Tất cả đang góp phần vào sự phát triển văn chương của một vùng đất được mệnh danh là chốn kinh kỳ của thi ca nhạc họa.

Không có ý định làm phép so sánh với các thế hệ nhà thơ nhà văn tiền bối bởi sự so sánh nào cũng khập khiễng. Nhưng chúng tôi, những người xưa trẻ tuổi vẫn tự hào mình đã sống hết mình, đã cháy hết mình cho ngọn lửa đam mê văn chương. Tài năng có thể không nhiều, độ tinh cất có thể còn chưa tới. Thì hề chi, trái tim tha thiết với văn chương đã giúp một thế hệ chúng tôi sống đẹp với xứ sở hoa mộng này, để mỗi lần bè bạn phương xa ghé lại, đều thấy ở đây còn người sống với thơ, như thơ.

Đ.H
(267/5-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ MINH PHONG

    (Nhân đọc: Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Khoa học xã hội, 2017).

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Trong sách “Nhìn lại lịch sử”, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tác giả Phan Duy Kha viết bài “Một bài thơ liên quan đến lăng mộ vua Quang Trung”.

  • BÙI KIM CHI

    “Tháng Tám năm Ất Dậu (1945)… Là công dân Việt Nam nên tôi đã tham gia phong trào chống xâm lăng…”. (Truyện ngắn Mũi Tổ).

  • TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI

    Thuật ngữ triết luận gắn với tính trí tuệ hay tính triết lý trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng xuất hiện từ rất sớm.

  • NGUYỄN THẾ QUANG

    Nói đến nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì không gì bằng đọc cuốn tự tuyện của anh. Số phận không định trước(*) đưa ta đi suốt cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ quyết liệt suốt năm chục năm qua của anh.

  • NGUYỄN HỮU SƠN

    Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) gốc họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng Thiền Nam phương Tì Ni Đa Lưu Chi.

  • NGUYÊN QUÂN

    Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.

  • TUỆ AN

    Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.

  • NGUYỄN THỊ THANH LƯU

    Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.

  • MAI VĂN HOAN

    Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.

  • TRIỀU NGUYÊN

    1. Đặt vấn đề
    Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ  

    (Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    (Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)

  • VŨ TRỌNG QUANG

    Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:

  • GIÁNG VÂN

    Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.

  • LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.

  • Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.

  • Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.

  • Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.