Thực trạng đói tiểu thuyết

09:28 09/02/2010
Nếu có thể nói gì về tình trạng ngày càng thưa vắng các tiểu thuyết đọc được hôm nay, hay nói một cách chính xác hơn là sự vắng mặt của tiểu thuyết hay trong vài thập kỷ qua, theo tôi trước hết đó là vấn đề tâm thể thời đại

Tâm thể thời đại được định giá ở tầm vĩ mô như là sự cộng thông về khía cạnh tâm lý những đặc trưng cơ bản nhất của thời đại, cái mà mỗi chúng ta đang hàng ngày, hàng giờ, từ hành vi đến giấc mơ sống trong và sống cùng với nó như là môi trường tâm lý vừa khả biến vừa bất khả biến. Thoạt nhìn, nhiều người tưởng rằng thời đại chỉ là nhân tố khách quan mang lại đề tài cho tác phẩm văn chương nói chung, cho tiểu thuyết nói riêng. Vâng! Xét một khía cạnh nào đó có thể đúng. Song, nếu nhìn sâu hơn, thời đại như một thực thể tâm lý, nó mang đến cho tác giả, tác phẩm và công chúng của nó nguồn cảm hứng chủ đạo, được coi như là một trong những nhân tố đầu tiên, quan trọng nhất để tạo dựng nên tác phẩm văn chương nghệ thuật. Ở phương diện này tâm thể thời đại có ý nghĩa như là sự quyết định đầu tiên đối với sự phát sinh và phát triển của tiểu thuyết. Những năm tháng chiến tranh, sức mạnh của cả dân tộc là quyết tâm đánh giặc cứu nước, vì sự tồn vong của giống nòi. Những chiến công hiển hách luôn dội hưởng vào tâm trí của mọi thành viên trong cộng đồng, mọi lúc mọi nơi, mọi lứa tuổi. Tất cả điều đó đã tạo nên cảm hứng thường trực đối với cả các nhà tiểu thuyết lẫn công chúng. Những người cầm bút thời chiến tranh, dù là người cầm súng trực tiếp đối mặt với kẻ thù ngoài chiến tuyến, hay là người làm những công việc thầm lặng chốn hậu phương đều có cùng một nhịp sống chung với dân tộc và thời đại. Anh ta thấm đẫm từng hơi thở, từng nhịp đập trái tim, cùng cộng thông với số phận của cả cộng đồng. Trong chiến tranh giữ nước, không cho phép bất cứ ai tự tách mình, quay lưng lại cộng đồng, nếu như anh ta không cố tình chuốc lấy số phận bi kịch như người anh hùng Asin trong trường ca của Homere. Cuộc chiến tranh giải phóng là điểm hẹn của tất thảy mọi người, cả những người cầm súng và những người cầm bút, những người trực tiếp chiến đấu và những người phục vụ chiến đấu, không phân biệt đẳng cấp, tôn giáo, chính kiến, lứa tuổi hay giới tính... Thành thử chỗ đứng, tầm quan sát và cả những thúc bách bên trong đối với người cầm bút đã được tạo dựng và xác định ngay từ trong ý thức, đến quá trình thai nghén và cuối cùng là việc phản ánh sự việc và con người trong cuộc chiến đó thành tác phẩm văn chương. Sự trải nghiệm cá nhân đối với người cầm bút là những tấm vé bảo hiểm bằng vàng đối với sự thành công của tác phẩm. Trong điều kiện như vậy, nhà tiểu thuyết giống như là một chiếc máy photocopy đối với lịch sử dân tộc và thời đại mà anh ta sống và viết.

 

Anh ta chỉ là người ghi nhận những lợi ích, tâm tư, tình cảm, những khát vọng và số phận lịch sử của cộng đồng, trong đó chính bản thân anh ta, cũng là một cá nhân hiện hữu. Khi nhà tiểu thuyết phản ánh quyền lợi và khát vọng của anh ta hay của một nhóm người nào đó cũng chính là anh ta đã nói lên được quyền lợi và khát vọng chung cho cả cộng đồng. Một chiến công của đồng đội, một chiến thắng từ mặt trận hay tin về một người bạn ngã xuống nơi chiến hào, người cầm bút đều có thể sẻ chia cả những niềm vui và nỗi buồn đó với tư cách của người trong cuộc. Và anh ta tự mình phải lãnh trách nhiệm ghi nhận nó. Những đặc trưng của thời đại như vậy có một lực hấp dẫn thần kỳ, cuốn hút nhà tiểu thuyết hướng ngoại, không cho phép anh ta tự thu mình lại theo kiểu vơ vào hay cấy ghép các quyền lợi cá nhân vị kỷ xa lạ và đối lập lại với quyền lợi chung của cả cộng đồng. Động cơ viết để trở thành nổi tiếng, viết để in cho có nhiều đầu sách, bán được nhiều tiền là hoàn toàn xa lạ với những người cầm bút trong những năm chiến tranh. Ngược lại anh ta viết là để được tận hưởng những hạnh phúc lớn lao, cùng những khổ đau quằn quại, những mất mát hy sinh của đồng bào, đồng chí mình. Thời ấy, viết còn là để giải toả các xung năng về số phận và khát vọng của cả cộng đồng bị dồn nén chất chứa và tích tụ trong bản thân người cầm bút.

Còn công chúng luôn mở rộng vòng tay chào đón những cuốn sách thể hiện được tầm tư tưởng của thời đại và cũng là quay hướng về phía họ. Con người cá nhân hoàn toàn vắng mặt trong tiểu thuyết thời chiến tranh. Từ người cán bộ chỉ huy, anh lính nơi mặt trận, chị dân quân, cô giao liên, những bà mẹ chiến sỹ,... tất cả đều có một mẫu số chung là tinh thần yêu nước thương nòi, là lòng dũng cảm chiến đấu chống lại kẻ thù, là đức hy sinh quên mình vì nghĩa cả, lòng nhân,... không một ai so bì tị nạnh. Cái mẫu số chung ấy có thể đem đặt cho bất cứ ai, ở đâu, lúc nào, tôn giáo gì, tuổi tác bao nhiêu,... đều là đáp số đúng. Cũng vì thế, chưa bao giờ tiểu thuyết Việt lại nhiều như thời kỳ này. Chiến tranh đồng nghĩa với bom đạn, chết chóc hy sinh. Vậy mà, bao thế hệ trẻ nước ta vẫn không sợ, mà còn thích thú nữa là khác. Đi đánh giặc như là đi trẩy hội với Đường ra trận mùa bày đẹp lắm (Phạm Tiến Duật- Trường Sơn Đông- Trường Sơn Tây). Đấy chính là khía cạnh lãng mạn của chiến tranh. Nó đã góp phần không nhỏ vào việc giải phóng đất nước khỏi ngoại bang. Điều đó không thể phủ nhận được. Khi một thời kỳ lịch sử được đặc trưng bởi một chế độ thống trị nào đó (như phong kiến, tư bản, nô lệ... ) đã phát triển đến đỉnh điểm, chính là lúc nó bộc lộ một cách đầy đủ nhất tất cả những ưu và nhược điểm vốn có của nó, mà trước đó vẫn còn tiềm ẩn bởi nhiều lý do kinh tế, chính trị, xã hội,... chi phối, nên không thể bộc lộ được, hoặc chỉ bộc lộ một cách phiến diện, cục bộ. Thời kỳ này là mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh các dòng tiểu thuyết với cảm hứng chủ đạo là phê phán tính tất yếu không thể tồn tại của chế độ cũ, cần thiết phải ra đời một chế độ mới phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của tuyệt đại đa số quần chúng lao động. Đó chính là thời kỳ bắt đầu tan rã của chế độ phong kiến ở phương Tây vào thể kỷ XIV - XVIII, kết thúc là cuộc cách mạng tư sản Anh và công xã Paris (Pháp) và thời kỳ Cách mạng vô sản đầu thế kỳ XX, mở đầu là sự ra đời của nhà nước Xô Viết kiểu mới ở Liên Xô trước đây và một loạt các nước Đông Âu,...

 

Sự bức bách của đại bộ phận quần chúng nhân dân không chấp nhận sự tồn tại kéo dài của chế độ cũ, cũng như sự áp đặt một chế độ thống trị mới của ngoại bang, đã tạo nên một tâm thể thời đại mới, là nguyên nhân sâu xa về mặt lịch sử để cho một dòng tiểu thuyết mang cảm hứng ngợi ca hay phê phán, ra đời và phát triển. Tiền đề lịch sử ấy lại không hề có trong thời đại mà chúng ta đang sống. Đây là một nguyên nhân có tính tất yếu khách quan khiến cho trong hàng thập kỷ qua, chúng ta không có một dòng tiểu thuyết đích thực, chưa nói đến tiểu thuyết hay. Mặt khác, tâm thể thời đại còn dội hưởng mạnh mẽ đến đại đa số công chúng của tiểu thuyết. Hoà bình và dựng xây để phát triển (chứ chưa phải là đã phát triển), từ trong bản chất kinh tế và xã hội của nó, đã hoàn toàn đổi khác so với thời kỳ chiến tranh. Xây dựng kinh tế, có nghĩa là chúng ta phải cân, đo, đong, đếm và tính toán đến giá trị, hiệu quả, cái được, cái mất, trước hết là về mặt kinh tế. Lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân cung được ưu tiên trong công cuộc dựng xây ngang hàng với lợi ích chung của cả dân tộc, cộng đồng là cái duy nhất được ưu tiên hàng đầu trong chiến tranh. Tính chất cố kết vì sự sống còn của cả cộng đồng, giờ đây được chuyển phần lớn thành những nỗ lực phát triển cá nhân theo những tiềm lực, khát vọng và mục tiêu riêng của mỗi người, cũng là để từ đó tạo nên một cộng đồng, một dân tộc khỏe mạnh một cách thực chất cả về mặt kinh tế thay vì chỉ khỏe mạnh vè ý chí, tinh thần như trong thời kỳ chiến tranh. Một khi nền tảng kinh tế - xã hội, cái có ý nghĩa quyết định đối với sự phát sinh và phát triển của tiểu thuyết, đang diễn ra một sự phân cực gay gắt và quyết liệt, thì làm sao nhà tiểu thuyết có thể tìm ngay được tiếng nói chung cho cả cộng đồng với tư cách là yếu tố chính, tạo nên nội dung tiểu thuyết và đồng thời cũng là người thẩm định cuối cùng của tiểu thuyết. Nền kinh tế thị trường luôn có xu hướng kéo tách con người ra khỏi những liên minh tình cảm truyền thống, cùng với những mục tiêu đạo đức trừu tượng. Mặt khác, nó luôn đặt người ta vào những liên minh kinh tế mới, nhằm mục tiêu có lợi cho mỗi thành viên. Làm sao có được tiếng nói chung giữa những người nông dân còn phải lo để có ăn no, mặc ấm, có công ăn việc làm ổn định thường xuyên với một số người, hôm qua còn là bà con ruột thịt của họ nơi chôn rau cắt rốn, hôm nay đã trở thành kẻ xa lạ trong cuộc sống xa hoa chốn đô thành, trên cương vị của những ông chủ mới.

 

Làm sao có được tiếng nói chung giữa những số kẻ vốn là cậu học trò nghèo, chăm ngoan ở trường làng, vì một cơ may nào đó phất lên, sẵn sàng bỏ tiền ra mua những căn hộ chung cư cao cấp, những lô đất trong các dự án, mua nhiều cỗ phiếu trên thị trường chứng khoán,...để rồi nhìn mọi người bằng nửa con mắt, luôn giở giọng bề trên, kẻ cả, dạy đời; với một bên chính là những con người hai sương một nắng, lo làm ăn và không ít hơn một lần đã từng nhường cơm sẻ áo và cưu mang những kẻ đó. Thực tế trớ trêu ấy nếu không phải là phổ biến, thì cũng chẳng còn là hiện tượng cá biệt nữa. Nó đã làm lu mờ và xói mòn tinh thần đạo lý bầu ơi thương lấy bí cùng trong những lúc gian khổ hy sinh của những năm tháng đánh giặc của cả dân tộc với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Tâm thể thời đại còn làm thay đổi cả nội dung và tính chất của công chúng tiểu thuyết hôm nay. Lặn lội, bươn chải để tìm kế sinh nhai là hiện tượng phổ biến của đại bộ phận những người lao động ở một đất nước nông nghiệp, chậm phát triển như nước ta. Ngay cả khi trà dư, tửu hậu muốn tìm một ông bạn cố tri để gật gù, dốc bầu tâm sự cũng không phải là dễ. Làm sao người ta có đủ thì giờ để ôm khư khư quyển sách dày vài trăm trang. Nền kinh tế thị trường luôn bắt người ta đứng lên và làm một cái gì đó. Cứ làm ắt sẽ biết, còn hơn ngồi suy tư, ngẫm nghĩ và mộng mơ theo cách của các nhà hiền triết phương Đông. Mộng mơ, cần thiết để làm cho con người ta sống đẹp hơn so với những gì hàng ngày người ta đang sống. Nhưng trớ trêu thay, mộng mơ lại chưa bao giờ đem đến cho người ta cơm ăn áo mặc, tiền của và sự giàu sang. Điều đó chỉ có thể xảy ra trong các câu truyện cổ của Andessen. Thành thử, người ta thích đến với nhau bàn chuyện làm ăn hơn là để thưởng ngoạn văn chương, thích nói với nhau về các mưu chước kiếm tiền hơn là nghe kể về chiến công của người khác trong quá khứ. Người ta thích đua chen cho hợp mốt cạnh tranh của kinh tế thị trường hơn là cùng nhau chia sẻ sự đói nghèo thiếu thốn của thời kỳ chiến tranh, cần phải nương tựa vào nhau mà tồn tại. Bản thân những nhà tiểu thuyết cũng đang trở thành nạn nhân của nền kinh tế thị trường. Anh ta cũng như mọi người phải bươn chải, sinh nhai tối ngày, đầy đêm còn đâu thì giờ để đầu tư cho tiểu thuyết. Đầu óc rối bù, thời gian và sức lực cạn kiệt, nhuận bút lại quá rẻ mạt. Ngợi ca cái gì, phê phán cái gì phải thật sự rõ ràng, tiểu thuyết ở ta lâu nay không cho phép người cầm bút đứng giữa hai cực đó, cũng như không cho phép anh ta thờ ơ với số phận con người. Thời đại mới tuy đã bắt đầu, nhưng vóc dáng của nó hãy còn rất khiêm tốn, chưa thể coi là đã có một dáng đứng Việt Nam trong thời kinh tế thị trường như trong chiến tranh vệ quốc được. Cuộc sống chưa bộc lộ hết những thuộc tính vốn có của nó, cùng với một công chúng đang tranh thủ hướng nội thay vì một thời gian dài đã hướng ngoại đến cùng kiệt, dù nhà tiểu thuyết có muốn đến mấy cũng lực bất tòng tâm, ấy là chưa kể đến bản thân anh ta không phải lúc nào cũng sẵn sàng có một đầu vào - đầu óc và đầu tư - lý tưởng đối với tiểu thuyết. Tuy vậy, trên các sạp sách báo bên vỉa hè hay trong các thư viện, tiểu thuyết vẫn cứ tràn ngập. Nếu một ai đó yếu bóng vía mà nhìn thấy những đống sách ấy có thể bất đắc kỳ tử vì đứt mạch máu não.

 

Cứ nhìn vào cái rừng tiểu thuyết khá rầm rộ ấy mà bảo rằng thể loại tiểu thuyết trong mấy chục năm qua đang phát triển mạnh và có nhiều thành tựu, thì chẳng qua chỉ nhìn thấy hiện tượng mà không thấy bản chất, thấy số lượng mà không thấy chất lượng. Có thể nói, số lượng tiểu thuyết hôm nay không phải là ít, nếu không muốn nói là quá nhiều, nhưng người đọc sách hôm nay giống như những người đi dự tiệc, ăn không cốt lấy nhiều cho ưỡn bụng khó tiêu, mà cốt là thưởng thức các món cao lương mỹ vị. Từ xưa tới nay, chỉ thấy người ta khen cuốn sách này hay và chê cuốn kia dở, chứ chưa hề thấy ai bảo rằng công chúng dở cả. Hoạ chăng chỉ có một anh chàng nào đó in sách ra mà không bán được cho ai, đành phán bừa như vậy thôi. Mà đã nói bừa, nói liều thì còn chấp làm gì. Quả là không ít người than phiền rằng hôm nay tìm một cuốn tiểu thuyết hay để đọc còn khó hơn tìm một ngôi sao trên bầu trời buổi sáng. Nhưng biết đâu các đại tiểu thuyết gia vẫn đang chuẩn bị cho công chúng một bữa tiệc tiểu thuyết giống như Trạng Quỳnh thết vua món mầm đá trong truyện dân gian. Công chúng, những người vốn rất yêu quý nền văn chương nước nhà hãy cứ đợi đấy (!?)

Đỗ Ngọc Yên ( hoinhanvietnam.vn)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.