HÀ QUẢNG
Trong việc xây dựng hình tượng thơ, các tác giả hiện đại sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật mà trước đây rất dè dặt, thủ pháp “lạ hóa” là một.
Ảnh: internet
“Lạ hóa” (theo Wikipedia) là những thủ pháp nghệ thuật theo đó, sự vật được miêu tả hiện ra không phải như ta đã biết, mà như một cái gì mới mẻ, “khác lạ”. Nó tạo ra một cảm thụ “khác lạ” đối với sự vật và hiện tượng quen thuộc. Xét về hiệu ứng thẩm mỹ, lạ hóa gây nên sự “ngạc nhiên và hiếu kỳ” ở chủ thể tiếp nhận, làm nảy sinh một thái độ tiếp nhận tích cực đối với thực tại.
Cái quy ước hình tượng nghệ thuật phải được thể hiện như dạng thức có thật tránh xa các biểu hiện khác lạ “lang thang giữa những điều phi lý” (Thomas Hobbes) của đời sống, ngày nay đã thay đổi. Đó là sự kết hợp các yếu tố thực và ảo, kết hợp ý thức lẫn vô thức, cả cái khả giải lẫn cái bất khả giải chi giao! Những yếu tố khác lạ phi thực (ước lệ, viễn tưởng, kỳ ảo, kỳ dị và những cách biến dạng khác nhau) xuất hiện trong tác phẩm tạo một không khí nghệ thuật đặc biệt, có tính huyền ảo, khác lạ. Hiện thực phô bày bởi cái nhìn hư tưởng bên trong kết hợp với những ảo giác cảm nhận bên ngoài gợi nhiều liên tưởng táo bạo, mới lạ. Bằng những thủ pháp này bài thơ tạo được những hiệu ứng thẩm mỹ phong phú đa dạng “đánh thức các giác quan” mới mẻ của người đọc! Thủ pháp lạ hóa được tạo thành bởi nhiều yếu tố, trong đó yếu tố siêu thực (phi thực - không như trong thực tế) kết dính tất cả.
*
Những yếu tố khác lạ phi thực đã có từ lâu trong các sáng tạo dân gian dựa trên những cái kỳ ảo để miêu tả hiện thực, sau này được tiếp nối ở một số tác giả văn học viết. Ca dao: Bao giờ cho đến tháng ba/ Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng/ Hùm nằm cho lợn liếm lông/ Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi/ Nắm xôi nuốt trẻ lên mười/ Con gà be rượu nuốt người lao đa; ngoài nghịch dị, yếu tố siêu thực được sử dụng khá đậm trong bài ca dao cổ này. Trong thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có những bài sử dụng thủ pháp này. Tứ của bài thơ Vãn cảnh trong Nhật ký trong tù khá độc đáo: Một bông hoa nở trong nhà ngục Tĩnh Tây “mù mịt tối”, nơi chỉ biết có tiền tài vật lợi, ai nào chú ý gì đến một đời hoa... Hoa nở, hoa tàn chúng thảy vô tình. Hoa biết chỉ có một tù nhân sau song sắt là hiểu cho nỗi đau khổ của mình nên đêm đêm hoa tìm đến kể cho Người nghe nỗi trắc ẩn:
Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng
Hoa nở hoa tàn thảy vô tình.
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình.
Bài thơ viết cách đây hơn tám mươi năm, nay đọc lại vẫn mới tươi đầy xúc cảm. Nó mới vì cái vẻ hư ảo pha màu siêu thực trong thủ pháp xây dựng hình tượng.
Đặc biệt thơ Hàn Mạc Tử, chất siêu thực tràn đầy. Nói về ông, nhà phê bình Phan Cự Đệ đã nhận xét: “Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc”. Một nhận xét có thể đề từ chung cho cả dòng thơ kiểu này.
*
Thơ đương đại, khá nhiều tác giả sử dụng yếu tố siêu thực như một thành tố không thể thiếu trong thủ pháp lạ hóa ở phương diện biểu cảm của ngôn ngữ. Quả vậy, nói về sự trôi chảy của thời gian bất định và sự nhập cuộc hữu hạn của con người có tác giả viết:
...Ngày mềm nhũn đang chảy từ chiếc đồng hồ cát đến con lợn đất/ Bụi trên bàn chờ hóa kiếp trần gian/ Thời gian ơi cho tôi quá giang một đoạn. (Thi Nguyên - Trên bàn viết)
Nói về sự “ra đi” (cái chết) của người đời:
…Buổi sáng chết rồi là có thật/ người ta chở nỗi buồn trắng muốt khoang xe/ băng qua những nắm đất sè sè/ chẳng còn ai nghe buổi sáng nói gì/ dù là một câu rất khẽ/ Ơ kìa đàn chim se sẻ mổ ngày rách toác thế kia/ (Đặng Thiên Sơn - Biến mất - Nhà văn & Cuộc sống, số 1/2021)
Thơ bây giờ có những liên tưởng táo bạo, những liên tưởng như thoát khỏi thực tại, đi về giữa thực và ảo. Những ám thị phi lý tính che giấu trong một hình thức ngôn ngữ tưởng đơn giản nhưng là những “mật mã” ở tầng sâu ý tưởng. Tất cả không thực mà có thực. Thời gian, không gian, đồ vật, con người, được nhào nặn trong một mô thức tưởng tượng khác chiều, nói về sự gắn bó và phát triển của cái mới trong lý thuyết cũng như thực tại, trong thơ ca và trong đời sống:
...Em cởi bỏ mọi trang phục pha lê nứt vỡ/ cởi bỏ mọi tư duy hình thức đã khô đình nát bến cạn/ hòa nhập vào cơ thể ta đang tốc hành về phía ánh sáng/ hay đóng cửa/ tự huyễn hoặc mình/ và chờ chết? (Phan Hoàng - Em nóng dần lên - Vannghesaigon.com).
Để góp phần lạ hóa các hình ảnh, các thi sĩ sử dựng nhiều thi tiết đậm màu siêu thực. Nguyễn Việt Chiến khi xây dựng hình ảnh Thúy Kiều đã viết: …trước mùa trăng sinh nở/ Nguyễn Du là người mộng du ân ái cùng trăng nhưng chưa đến nửa đêm thì Truyện Kiều đã viết xong/ và Nguyễn Du đạp mây trở về sông Tiền Đường/ để lại một bông trăng thức trong chiếc bình đêm/ thức chầm chậm/ đến sáng thì nở/ nở thành một nàng Kiều trắng trong/ giữa vẩn đục cõi người./ khi Nguyễn Du về/ bụi giang hồ/ trần thế vẫn như xưa/ ông lại gặp trăng đêm/ nở một đóa sững sờ/ nở chầm chậm đến sáng thì tắt/ nở chầm chậm đến sáng rồi chết (Nguyễn Việt Chiến - Trăng Nguyễn Du - Tạp chí Thơ - 2012).
Cái hình ảnh “đóa trăng - nàng Kiều” đẹp sững sờ đó được phô diễn cũng bằng một ngôn ngữ, một thể tài rất giản dị, rất tự nhiên, mê hoặc người đọc một cách liêu trai đại diện cho một bút pháp thơ hiện đại!
*
Từ những yếu tố đơn lẻ có tính tu từ ngôn ngữ, nhiều tác giả đã nâng cấp siêu thực thành một thành tố của thủ pháp lạ hóa của phương thức tư duy khi xây dựng hình tượng nghệ thuật. Thơ đương đại, bên cạnh các tác giả vẫn quen cách viết phân mảnh, bài thơ bố cục tùy hứng, các khổ các phần liên kết theo mạch tình cảm, lại có nhiều tác giả sáng tạo tập trung vào hình tượng chính, hình tượng tổng thể, yếu tố trí tuệ chi phối nhiều trí tưởng tượng, cái tứ hình thành trước trong tâm trí nhà thơ sau đó hiện trên mặt giấy và được tô điểm thêm. Nhà thơ ít chú ý các biện pháp đơn lẻ (thần cú, nhãn tự) mà định hướng vào “hình tượng tổng thể” của toàn bài thơ. Để kiến tạo cái hình tượng tổng thể đầy tính thẩm mỹ đó, nhà thơ không thể cảm gì viết nấy mà phải suy nghĩ, phải sắp xếp, hay nói theo thuật ngữ cổ điển là phải “cấu tứ”. Cấu tứ là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của các nhà thơ, tuy nhiên các tác giả cũ quen cấu tứ theo lối sắp xếp ý cảnh trên cái nền tả thực, các tác giả đương đại khi cấu tứ lại ưa sử dụng lối nói ẩn, gợi ý gián tiếp thông qua nhiều chi tiết, hình ảnh giàu màu sắc siêu thực, qua những ẩn dụ có tính tượng trưng, ước lệ tạo một góc nhìn mới khác lạ với sự vật. Nó buộc người đọc phải suy nghĩ mong khám phá nhiều tầng nghĩa trong các thông điệp mà tác giả gửi gắm…
Một trong số các nhà thơ đề cao việc dụng công lập tứ là Vũ Quần Phương. Những bài thơ gần đây cách lập tứ của ông có pha màu siêu thực tạo một mỹ cảm mới lạ. Bài Chè sen (Nhà văn & Cuộc sống, số 1/2021) là một tiêu biểu. Tứ bài thơ xoay quanh mối liên kết hoa và chè. Chè ngon nhờ ướp hoa sen, nhà thơ hình tượng hóa một tương quan: chỉ biết rằng hoa thác/ thì chè thành hương bay. Một tương quan vừa thực vừa ảo, một tương quan đời thường thành một sự hy sinh lý tưởng của phía này cho vẻ đẹp phía kia. Màu sắc siêu thực dẫn dụ người đọc ngay từ lời thơ mở đầu: Hoa khâm liệm/ cho chè bằng chính thân hoa/ chôn những sợi móc câu/ vào tầng hương ngát/ sương đêm ngoài kia - nước mắt/ khóc cho hoa/ hay khóc cho chè.
Câu thơ đọc lên tưởng vô tình mà thấm thía: Nói về cây cỏ nhưng ám dụ về nhân sinh, về con người đấy! Cái chu kỳ “hoa thác cho chè thành hương bay” cứ lặp đi lặp lại gợi một nhiệm màu của kiếp nhân sinh: Nước mắt - sương đêm khóc thương đưa tiễn hoa về đất nhưng không phải khóc vì thương tiếc một hình hài đã biến mất mà chỉ đưa tiễn một sự hoài thai hương và sắc hiển hiện dâng hiến mùa sau. Sương đâu có khóc hoa/ sương tiễn hoa về đất/ rồi sương lại hòa trong đầm nước/ lại đón hương và sắc/ những mùa sen sau. Và tác giả chiêm nghiệm một sự đời, một triết lý thiền gia: Tôi nâng chén chè sen/ ngạt ngào hương mùa hạ/ tôi uống chè hay sen/ không biết/ chỉ biết rằng hoa thác/ thì chè thành hương bay.
Nhờ vào sự dụng công lập tứ có tính lạ hóa quan hệ chè và hoa sen, trộn lẫn hư thực mà bài thơ gợi nhiều ý tưởng và xúc cảm mới mẻ, sâu xa nơi người đọc, nó tránh được sự nhàm chán mà ta thường gặp.
Hoàng Vũ Thuật có bài Người câu gió, tác giả nêu một thông điệp về quá trình nhận thức của con người trên con đường đi tìm ý nghĩa đời sống, khám phá vũ trụ. Biểu tượng gió được trình bày trong một kết cấu tương nghịch: Xung quanh biểu tượng gió là những thi tiết siêu thực “gió thổi căng phồng túi càn khôn bên hông”, ngồi câu gió với “sợi dây mảnh mai con người cố gắng nhẫn nại trên đồi” xuyên qua thời gian “tóc xanh hóa thành tóc trắng” để tìm hiểu “lối đi, gương mặt” của gió… Tác giả tư biện một nhận thức khả kính: Việc làm vô vọng “hai bàn tay trắng trở về”. Đời sống con người hữu hạn mà thế giới tự nhiên cũng như xã hội bao gồm những chân lý tương đối trong đó là vô hạn, không bao giờ đi được hết sự tìm hiểu của mình.
Không ai nhận ra lối đi của gió/ không ai nhận ra gương mặt gió
anh nhẫn nại ngồi câu trên đồi/ sợi dây mảnh mai
những con diều làm mồi với đôi cánh mỏng
gió và gió thổi căng phồng/ túi càn khôn kè kè bên hông rỗng rễnh
…
một ngày câu hai bàn tay trắng trở về/ một đời câu tóc xanh hóa thành tóc trắng
lịch trình gió buốt chưa thôi/ gió vô hồi ngàn sau chưa hết
có nhận ra ta trong hữu hạn kiếp người.
Ngoài lối xây dựng hình tượng thơ có tính biểu tượng khác lạ với nhiều thi tiết siêu thực, bài thơ kết cấu theo lối tương nghịch nhân quả: Tác giả ngày nào cũng lên đồi “câu gió” mong sẽ bắt được, khám phá nhiều điều nhưng vô ích vì gió thổi “ngàn sau chưa hết mà kiếp người hữu hạn” đành tay trắng trở về, khắc họa khá sâu tính triết lý của bài thơ!
Bằng lối kết cấu song hành giàu yếu tố siêu thực, Bằng Việt với bài thơ Đệ nhất tổ phái Trúc Lâm Giảng Thiền đã bày tỏ một suy cảm của mình về sự kế thừa và đổi mới trong cuộc sống. Qua hai cuộc hội thoại mà tác giả tượng ra, một giữa vị cao tăng và bậc chân tu, hai giữa tác giả và Phật tổ trong giấc mơ. Cả hai cuộc hội thoại đều quy tụ về một suy lý, việc đời cũng như việc đạo, tu hành cũng như đời sống, chính trị cũng như văn hóa “phải cách tân”! Trong cuộc hội thoại thứ nhất, hỏi về Phật, về Pháp, về Tăng đều được trả lời: “Chấp theo lối cũ là không đúng!” Ở cuộc hội thoại thứ hai: …Bảy trăm năm sau/ tôi hành hương lên Yên Tử/ Đêm nằm mơ thấy Phật/ Nhớ chuyện xưa bèn hỏi: Bạch Thầy, việc đời thế nào là đúng?/ Người ngậm ngùi: Chấp theo lối cũ là không đúng!/ Lại hỏi: Thế nào là hạnh phúc trần ai?/ Người bật cười to: Chấp theo lối cũ là không đúng!/ Hỏi tiếp: Vậy thế nào là Thơ?/ Người phủi tay: Chấp theo lối cũ là không đúng! (Bằng Việt - Đệ nhất tổ phái Trúc Lâm Giảng Thiền - Nhà văn & Cuộc sống, số 1/2021).
Sự hấp dẫn, hiệu ứng thẩm mỹ bài thơ tạo được nơi tiếp nhận của người đọc là tứ bài thơ kết hợp thực và ảo. Chân lý đời sống lồng vào câu chuyện có màu hư ảo. Thủ pháp đó góp phần thành công bài thơ vừa truyền thống vừa hiện đại!
*
Thơ đương đại có nhiều thay đổi để tiến gần đời sống, cập nhật đời thường với tâm lý con người bây giờ. Trong không khí bộn bề của sự tìm tòi đổi mới, nhiều tác phẩm tạo những nét riêng khó nhầm lẫn, gây được nhiều ấn tượng sâu sắc với công chúng yêu thơ. Tác phẩm tạo một mỹ cảm mới mẻ nhờ sự đổi thay về các thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt thủ pháp lạ hóa cách xây dựng hình tượng mở rộng biên độ tái tạo cuộc sống nghiêng về phía tượng trưng ước lệ, siêu thực, như lời nhận xét của nhà lý luận phê bình Nga: “ …cả hình thức lãng mạn, cả hình thức ước lệ, cả viễn tưởng, cả kỳ ảo, cả kỳ dị, cả những cách biến dạng khác nhau, nếu chúng trợ giúp cho nhà văn tái tạo sâu sắc hơn, tinh tế hơn trung thành hơn, diễn cảm hơn bức tranh về thực tại trong sự chuyển hóa hết sức phức tạp từ hiện tại đến tương lai”(*). Thủ pháp “lạ hóa” kết dính các hình thức này bằng yếu tố siêu thực vượt qua cái nhìn trực cảm quen thuộc đến bến bờ liên tưởng mới lạ có một cảm xúc thích thú tích cực hơn! Hay nói một cách khác trong các hình thức này ít nhiều đều có yếu tố siêu thực.
Trong quá trình phát triển, có thể có một vài tìm tòi chưa thật thích hợp với thị hiếu truyền thống, nhưng trong chừng mực nào đó cũng ít nhiều tạo được một khuynh hướng đổi mới cho thơ ca cũng như sự tiếp nhận của bạn đọc.
H.Q
(TCSH399/05-2022)
--------------------------
(*) Chuyển dẫn theo Lại Nguyên Ân: A.I.Ocharenko - Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa ngày nay, Nxb. Văn học, Moskova1977.
VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.
HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.