Phạm Văn Nuôi - Phan Trung Thành - Nguyễn Lãm Thắng - Tiến Thảo - Công Nam - Trần Xuân An - Nguyễn Công Thắng - Hà Văn Sĩ
"Xóm chài ven sông" - Ảnh: Đặng Văn Trân
PHẠM VĂN NUÔI
Thắp hương mà lạy
Thắp hương mà lạy gió ngàn
Lạy long đá núi, lạy tràn bể sông
Mồ hôi vẫn đổ xuống đồng
Niềm tin gửi đất, đất không nhận lời
Hắt lên buốt mảnh trăng trời
Búp non sắp rụng về nơi lá vàng
Thắp hương mà lạy tro tàn
Nghĩa trang chiều trắng hàng hàng mộ bia
Nấm bên này, nấm bên kia
Nấm còn nằm lại nơi bìa rừng sâu
Máu tươi quyện với bùn nâu
Khói nhang nghèn nghẹn hai đầu âm dương
Ơn người bỏ lại lược gương
Để bây giờ có tên đường tóc xanh.
PHAN TRUNG THÀNH
Đồng ngựa
Lao cả tấm thân về đích
quăng lên trời những đường đua mù mịt
giờ đây
chúng được thảnh thơi
chọn cho mình sợi cỏ
hỡi những con ngựa đua xong - Chàng thi sĩ
người luôn mang chiến thắng hão huyền
Tin nhắn không “sent”
Buổi sáng đánh răng chải đầu áo vô quần trịnh trọng cười với chim
nuôi mấy tháng nay hy vọng ngày nào chim nói thành lời
truyền thông không ngừng đưa tin trận dịch gia cầm lan mạnh
sao ta lại nuôi chim để nghe giống tiếng người
Hôm qua, chỗ hầm nhà xe có nhiều bịch xốp ai vứt lung tung
mỗi đợt gió lọt qua chúng bay như những linh hồn
câm lặng ngày ngày ở nơi thiếu nắng
chờ bàn tay ai đó nhặt nhạnh chúng và mang đi
Ta đã nghĩ gì mỗi khi xuống hầm giữ xe
những trận dịch gia cầm lẻn vào bóng đêm chuyện trò lông vũ
có gì liên hệ nhau ngoài tin nhắn cho em hoài chưa “sent”
để buổi mai còn yên trong giấc ngủ!
NGUYỄN LÃM THẮNG
Tiếng khóc trên cánh đồng
tiếng khóc của núi chảy dọc theo phù sa bào mòn giấc ngủ
sợi dây thừng tàn bạo của cơn mê sảng thắt cổ giấc mơ niên thiếu
anh ngã sấp xuống buổi chiều hôn mê
vết dao trá hình chém phập phía sau lưng hờn tủi
những viên sỏi lăn lóc dòng sông đời nhá nhem tao loạn
ghim vào từng cơn đói
ký ức mọc lông vỗ cánh phía mặt người
gánh củi nặng oằn đè trên vai người đàn bà có chửa
đứa con lọt lòng rớt giữa đồng khô
máu nhòe từng cơn sản hậu
hòa nước mắt mồ hôi tưới xuống đất cày
con bò u mê đạp lên tiếng rên oán thán
mê nón che ngang một giọt máu chào đời
kiếp người bắt đầu biết đau trên lưỡi liềm cắt rốn
đắp vết thương bằng miếng cỏ hò khoan...
cái nghèo trớ trêu như trái đào lộn hột
cứ phơi ra ngoài một cục ghèn đau
anh bước ra đồng
anh bước theo trâu
lật lớp bùn nâu lật từng thớ tuổi
nghe tiếng khóc chảy ra từ khe núi
gần nửa đời người
con sâu đục thân mỏi mòn mắt lúa
cái khổ đục người méo miệng cười xưa
anh gác rựa bờ châm thêm điếu thuốc
con trâu giật mình đếm cỏ dưới chân
tiếng khóc giật mình trượt trên bầu vú
anh lật bàn tay đếm từng mùa hạn
nghe tiếng loài người khóc dưới đáy mộ sâu...
TIẾN THẢO
Thức với tháng mười
Tháng mười
rả rích trời mưa
nửa đêm
cối gạo vẫn chưa trắng ngần
một mình thức với sàng giần
oằn vai mẹ gánh
chợ gần chợ xa
Rét nàng Bân
buốt thịt da
rét đài rét lộc can qua
phận đời…
Tháng mười
hạt gạo ba trăng
lửa rơm nồi đất
vì răng nhớ hoài?
Mẹ đi khuất nẻo núi đồi
chỉ còn bếp lửa khóc cười cùng con.
CÔNG NAM
Em lưng chừng mùa gió
Ánh chiều nhuộm tím đôi bờ mộng
Tôi ở bên ni, em nơi mô?
(Cho TSM)
Em lưng chừng triền gió
Vô hình gần và xa
Gió thoát y
Tuốt luột mành kiêu sa
Chênh chao. Vai trần. Mắt bão…
Gió phiêu du
Bút phác màu lữ độ
Má đỏ. Hoàng hôn môi
Tóc tím lựng lưng đồi
Xanh thẳm câu hò xuôi ngược khúc sông trôi
Và xa kia
Xác bùa mê dạt trắng bãi luân hồi
Gỡ em khỏi lưng chừng hò hẹn
Bất đắc gió chết lâm sàng
Mây ngũ sắc giải tán giấc thiên đàng
Chó cấm khẩu
Điệu Mái Nhì, Mái Đẩy lạnh đêm hoang
Gió đi
Niềm trắc ẩn cuốn theo
Và bỏ lại bao hối tiếc.
TRẦN XUÂN AN
Những quê quán thứ tư
tuổi học trò dạt qua vài ba quê ở
năm năm dạy văn thường trú dăm nơi
mươi chốn ấy có hơn mười cõi nhớ
đâu chỉ phố làng thôi
quê là những tình say đắm suốt đời
thất tình và đơn phương, thấm thía nhất
nhưng nồng môi mắt mới thật lưu hương
những cô gái tạo ra ngọt ngào hay đắng chát
cũng là quê quán thứ tư:
quê quán của yêu đương
nào phải đa tình, lòng chóng lạt
do số lục bình, phận loài chim đo cánh lên trời xa
mươi ánh mắt trao đi, chín lần quay về, tự nhìn, ngơ ngác
đành phải tự thương mình
và thương cả cõi người ta.
NGUYỄN CÔNG THẮNG
Từ biệt
chỉ lần nữa thôi phố nhỏ
bước chân hè cũ mông lung
rưng rưng sầu đông tím ngát
về đâu sông nước chập chùng
nói gì cũng là từ biệt
thì thôi như nước cuốn đi
xanh thẳm một dòng vô hạn
trôi theo hoa lá xuân thì
gởi lại khung trời huyễn mộng
chiều hoang một thoáng mây qua
cỏ rối chân người ở lại
quay đi gió bụi nhạt nhòa
HÀ VĂN SĨ
Nỗi nhớ trọ vào cây
Một chiều dừng chân lưng đồi này
Nghe rừng cao su khẽ hát
Chạnh lòng tôi nhớ người ơi
Ngàn sao trên trời buông tiếng gọi.
Đường mười bốn chạnh lòng tôi ấy
Qua đây ôm mộng vỡ đầy
Lên phố núi cao, đường dài hơn ngày nghỉ
Chưa kịp chuyến rồi nỗi nhớ trọ vào cây.
(TCSH334/12-2016)
Điều bình thường lạ lẫm
Được nhìn lại Huế
Lê Vi Thủy - Thái Hải - Phạm Nguyên Tường - Lê Huy Hạnh - Nhất Lâm - Nguyễn Hoa
Huỳnh Quang Nam - Huy Phương - Trần Dzụ - Trần Hữu Lục - Lê Huy Mậu - Tôn Nữ Ngọc Hoa - Hồ Ngọc Chương
ĐINH THỊ NHƯ THÚYĐã buồn trước cho những ngày chưa đếnnhững chia xa đang sum họpnhững mỏi mệt đang hân hoannhững bóng tối khuất lấp đang rực sángĐã nhìn thấy vết chémròng ròng máu đỏ tươi trên da thịtnhư nhìn thấy bước chân người hành khấtchậm rãi lê trên đường
Ở những đỉnh cột
Như lời tình tự
Sinh năm Nhâm Thìn, Phan Văn Chương từng tham gia quân đội, hiện là hiệu trưởng trường THCS Quảng Phương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Thơ đến với anh như người tình muộn. Có điều anh biết chọn lọc, học hỏi, vượt qua những cản trở thế tục, tiếp thu cái mới của đời sống văn học hôm nay đang chuyển đổi. Nhờ thế thơ anh sớm tạo được không gian riêng, cách nói riêng. Phan Văn Chương chứng minh rằng, ở bất kỳ lứa tuổi nào, người ta vẫn có thể tìm cách vượt lên, nếu tự mình khai phá, xác lập được con đường mình đang đi. HOÀNG VŨ THUẬT
Hoàng Vũ Thuật - Lê Thái Sơn - Thiết Mộc Lan - Ngô Hà Phương - Lê Tấn Quỳnh - Nguyễn Quốc Hiền - Phan Bùi Bảo Thy
Năm sinh: 1950Quê quán: Đại Lộc, Quảng NamThơ đã in trên nhiều báo, tạp chí, tuyển tập (1971- 2004)Đã xuất bản: Trong hoàng hôn gió (1995), Trăng của ngày (1999), Thơ bốn câu (2001), Bài ca của gió (2002), Phía sau tôi (2003).
Bóng xưa Đập cổ kính ra tìm thấy bóng Xếp tàn y lại để cầm hơi Tự Đức
TRẦN PHƯƠNG TRÀ Kính viếng bác Hoài Chân Nguyễn Đức Phiên. đồng tác giả “Thi nhân Việt Nam”, 1941
Từ Nữ Triệu Vương - Trần Thị Vĩnh Liên - Chử Văn Long - Lê Văn Kính - Nguyễn Quốc Anh - Ma Trường Nguyên - Tôn Phong - Nguyễn Thánh Ngã - Ngô Đức Tiến - Đặng Nguyệt Anh
Lam Hạnh - Tuệ Lam - Chử Văn Long - Nguyễn Man Kim - Hoàng Vũ Thuật - Khaly Chàm
Tên thật: Nguyễn Phạm Tú TrinhSinh 1983Sinh viên Khoa Ngữ Văn - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vănGiải nhất cuộc thi thơ “Đất nước và lục bát” của báo Tuổi Trẻ. 2003.
NGUYỄN TRỌNG TẠO chọn và giới thiệuThời Thơ Mới ở ta đã có thơ hình thoi, thơ hình tam giác, thơ hình thập giá... Và bây giờ thơ “tân hình thức” của người Việt ở hải ngoại cũng đã làm nao lòng một số người làm thơ trong nước. Những loại thơ hình thức ấy thường là bắt chước những cách tân kỳ dị của thơ phương Tây từ thế kỷ XIX đến ngày nay. Thực ra thì thơ chữ Nho ở ta cũng đã từng có thơ hình tròn, thậm chí có bài đọc được đến 18 cách, nhưng những “người hiện đại” ở ta lại thường vẫn chuộng thơ Tây và từ đó cũng “sáng tạo” ra những hình thức kỳ dị khác gây chú ý cho người đọc (xem).
…Cả rừng cây thấy mẹ cườiMẹ ơi! nước mắt đầy cơi đựng trầuThác ngàn xa vẫn nguyện cầuVô thường! mẹ nhuộm biếc màu trời xanh.
Có phải em là HuếDùng dằng tôi chẳng muốn xaHỡi em gái Huế dạo qua bên cầuMắt đen, tóc mượt mái đầuCười duyên như thể từ lâu thương rồi
Minh Đức Triều Tâm Ảnh - Tùng Bách - Nguyễn Sĩ Cứ - Lê Anh Dũng - Văn Công Hùng - Lê Thiếu Nhơn - Công Nam - Nguyễn Thiền Nghi - Nhất Lâm - Ngô Minh - Trần Văn Khởi - Lê Ngã Lễ - Trương Đăng Dung - Đặng Kim Liên - Tạ Vũ - Nguyễn Ngọc Phú - Nguyễn Hàn Chung