Đỗ Nam Cao - Nguyễn Trọng Tạo - Trần Chấn Uy - Nguyễn Văn Chương - Phùng Tấn Đông - Trần Quang Đạo - Trần Lê Văn
"Cô giáo và thiếu nhi" - tranh của Vĩnh Phối
ĐỖ NAM CAO
Người ơi
Kính tặng nhà thơ Hữu Loan
Nhà thơ của một mầu
Đi tận cùng mầu ấy.
Người từng nắm cục than
(Gan cóc tía!)
Để một đời niu niu hoa lúa
Thế giới lắm sắc mầu
Đi tận cùng mầu ấy
Người khóc người vợ chết cực kỳ
Khóc ai còn che dấu
Kìa xem con cá sấu
Nước mắt cũng lắm mầu
Đi tận cùng mầu ấy
Người giữ lửa
Nùi rơm ngun ngún cháy
Có một chiều mưa nào chạnh thấy
Mống cụt cũng bẩy mầu
Đi tận cùng mầu ấy
Người câm như hạt thóc
Ba mươi năm
Ba mươi năm là mấy
Bỗng nẩy mầm
Òa lên mùa màng con gái lúa ứa sữa
Chỉ thằng điên đập xóa các mầu
Giữ riêng mầu hắn khoái
Người chỉ muốn xới đào tận đáy
Trong vũ trụ hồn mình
Đi tận cùng mầu ấy
Người hư thực bên tôi
Mái tóc bạc ảo mờ sương dĩ vãng
Bất chợt
Giọt nước mắt mầu sim
Chảy nhểu ra từ bên con mắt lớn…
4-1988
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Hà Nội perestroika
Ba mươi năm lẩn tránh những dòng tên
báo lại in Phùng Quán, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt…
ba mươi năm
có tên tuổi đổ bê-tông
phút chốc thành vụn nát...
Hà Nội Perestrôika
Không Đổi Mới đồng nghĩa cùng Tự chết!
Tôi trở lại người kêu oan người lên chức
chợt cất lên tiếng nói những người câm
sắm trăm vai mà chẳng phải diễn viên
bao nhiêu Vân dại
Hà Nội Perestrôika
Tháp Rùa đột ngột trên sương khói…
Cạn một chầu bia hơi
không chờ đợi
chỉ vậy thôi, đủ tin yêu Hà Nội.
Nhưng đừng tin tất cả sẽ ngọt ngào
Perestrôika
có cay đắng của ngôi nhà bị giở
những phóng viên máy ghi âm phòng thủ
giá giấy tăng
giá gạo nhảy bất ngờ
thơ vẫn viết, vẫn giữ vai "đầu nậu"
thơ làm sao sống nổi giữa thủ đô?
Hà Nội Perestrôika
ông lớn tôi gặp lại
Hà Nội nghe cay cú giọng về hưu
em bé mời tôi mua báo mới
hồn nhiên tăng giá, chẳng nhiều lời
có tiếng nói hả hê mùi thịt chó
có bàn tay tái nhợt ngửa xin tôi…
"Nếu rắc muối vào vết thương
cứ rắc
với vết thương
xin đừng rắc
thêm đường!"
đừng an ủi bằng những điều huyễn hoặc
đừng tin yêu như một gã ngoài đời
Hà Nội Perestrôika
không Đổi Mới đồng nghĩa cùng Tự Chết
Hà Nội - Huế, 4-1988
TRẦN CHẤN UY
Lương thiện
Khi ta sinh ra, lớn lên
vẫn giữ nếp xưa,
người già dạy ta lương thiện,
Lương thiện
là mười lăm năm lưu lạc Thúy Kiều
là Thị Kính nghìn năm oan khuất
là xác chết Chí Phèo
quằn quại trong trang văn Nam Cao
cha ông xưa
trọng nhân nghĩa, giữ đức lành
sao văn chương
Còn ghi bao cuộc đời oan trái.
Vị đại thần triều Lê, Nguyễn Trãi
Có phải vì thanh liêm mà mắc án Lệ Chi viên,
kẻ sĩ Bắc hà Yên Đổ tam nguyên
thương dân, khóc nước mắt mù
chí sĩ họ Ngô
nhận cái chết để giữ mình lương thiện
Đất nước, trải bốn nghìn năm thanh bình
binh biến
bao người trung liệt bị chém đầu
còn gian thần thì ung dung áo mũ
Có phải khổ đau, oan khuất
là cái giá
làm người lương thiện
của mọi thời chăng?
Cho dù thế khi con ta sinh ra và lớn lên
vẫn giữ nếp xưa
ta sẽ dạy con ta làm người lương thiện.
NGUYỄN VĂN CHƯƠNG
Về một ông quan
Tám mươi năm tròn từ ngày ông mất
Người ta còn tranh luận về ông
Có tội hay có công?
Ông quan họ Đào thăng đến Thượng thư nhưng lại say mê làm thơ, hát bội
Ông lên chức danh nhờ mấy chục pho tuồng hay giết người vô tội?
Lịch sử đã phân minh
Ông làm quan
Phải đâu để mưu danh cầu lợi cho mình
Thời thế ấy lựa chiều gió thổi.
Miễn là đừng khom lưng quì gối
Còn đánh thù, ngọn bút tài há kém thanh gươm
Vạch mặt bọn vua quan ở giữa triều đường
Mà chúng phải ha hả cười khen, ấy ngọn bút ông mới là thần diệu
Những Đắc Kỷ, Trụ Vương đời này chẳng thiếu
Phải chúng đang chễm chệ ngai vàng?
Ông làm quan
Dẫu bốn lần Thượng Thư, ba lần Tổng đốc
Lớn quyền lớn chức
Nhưng ông không lớn lòng tham
Bao kẻ vừa nghi ngoe một chức sắc cỏn con
Lòng không đáy đã bạo tay vơ vét
Riêng ông vẫn thẳng ngay ngọn bút
Hiền tôi gian, lòng những căm lòng
Gươm ba kia, tội gã không dung
Luật tám nọ lỗi mày khó thứ (1)
Nếu làm quan, xin cứ như Đào công là đủ
Để mai sau, tên tuổi còn thơm
Thành tâm dâng một nén hương
Kính viếng ông - quan - tuồng hiếm hoi trong lịch sử
Thủ vãng sơn hà tâm vị tử (2)
Bông mai vàng nở sáng núi Huỳnh Mai
Quy nhơn, đêm 31-10-87
----------------
(1) Lời Tạ Ngọc Lân trong tuồng "Khuê các anh hùng" của Đào Tấn.
(2) Tay đỡ non sông lòng chẳng chết. Thơ Đào Tấn khóc Phan Đình Phùng.
PHÙNG TẤN ĐÔNG
Ngoài kia là mùa thu
Tặng họa sĩ T.
Khi cơn mưa xua vội mùa thu đi
Mang theo rất nhiều sương trầm nơi đáy mắt
Ta gởi lại gì trên lối mòn năm trước
Chiếc lá ngây ngô như giọt nắng ngời...
Nên nói một điều gì đi em!
Có thể những câu chuyện đời thường buồn vui chóng mặt
Thấp thoáng nụ hồng trong khung cửa hẹp
Anh không muốn nhắc hoài một sự thật
Cọng cỏ xanh như có một linh hồn
Nên nói một điều gì đi em!
Những quyển sách thôi ngồi làm cổ tích
Có những giọt nước đại ngàn không trôi theo sông
Ngẫu hứng trọn đường bay của chim trời cá biển
Đứng làm đóa mây chiều huệ trắng
... Và anh đã ngồi rất lâu, rất lâu, như thể
trong mắt em không một chút nghi ngờ
Như thể dưới đường em kiễng chân gọi
Bước xuống và đời anh không thể khác đi
Không thể khác đi mùa thu ngoài khung cửa
Mỗi rụng rơi là một ngóng chờ
Khi đã lắng hết hồi âm của lá vàng và gió
Anh lầm lì khởi sự những câu thơ
Huế 11-1987
TRẦN QUANG ĐẠO
Mẹ ngồi phơi những lát khoai
Từng đụn cát lóa trên đường số Một
Hàng dương còi chỉ lối một vùng quê
Con gặp mẹ bắc thang vào lô cốt
Cần mẫn ngồi phơi những lát khoai khô
Nhói lòng con khi thấy mẹ ngồi kia
Mẹ lật trên tay từng lát nắng
Đất quê nghèo chỉ đồi đồi cát trắng
Để được lát khoai này mẹ biết mấy lo toan!
Suốt những năm đánh giặc gian nan
Vùng cát nắng trắng một vành đai trắng
Từng ruột tượng khoai khô mẹ giành nuôi người lính
Khoai mẹ trồng giành giật với đạn bom
Bên hàng dương là mái nhà tôn
Nắng trên cát con nhìn nhức mắt
(trên tay mẹ chiếc gáo bằng lon sắt
Những chiều nao cần mẫn tưới dây khoai)
Đất quê giờ đã xóa vành đai
Bàn tay mẹ cấy trồng theo thời vụ
Trên đất cát khoai lớn dần chùm củ
Để trưa nay mẹ ngồi phơi những lát khoai khô.
Quảng Trị 1985
TRẦN LÊ VĂN
Bông cúc
Hữu tình làm ra vô tình
Hay em vô tình thật đấy?
Thôi cứ vô tình như vậy
Buồn riêng, anh đủ sức mang
Vườn em có bông cúc vàng
Ngày muộn sao còn tươi thế?
Chạm vào áo anh se sẽ
Mà anh rũ mãi không ra!
1986
(SH33/10-88)
Điều bình thường lạ lẫm
Được nhìn lại Huế
Lê Vi Thủy - Thái Hải - Phạm Nguyên Tường - Lê Huy Hạnh - Nhất Lâm - Nguyễn Hoa
Huỳnh Quang Nam - Huy Phương - Trần Dzụ - Trần Hữu Lục - Lê Huy Mậu - Tôn Nữ Ngọc Hoa - Hồ Ngọc Chương
ĐINH THỊ NHƯ THÚYĐã buồn trước cho những ngày chưa đếnnhững chia xa đang sum họpnhững mỏi mệt đang hân hoannhững bóng tối khuất lấp đang rực sángĐã nhìn thấy vết chémròng ròng máu đỏ tươi trên da thịtnhư nhìn thấy bước chân người hành khấtchậm rãi lê trên đường
Ở những đỉnh cột
Như lời tình tự
Sinh năm Nhâm Thìn, Phan Văn Chương từng tham gia quân đội, hiện là hiệu trưởng trường THCS Quảng Phương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Thơ đến với anh như người tình muộn. Có điều anh biết chọn lọc, học hỏi, vượt qua những cản trở thế tục, tiếp thu cái mới của đời sống văn học hôm nay đang chuyển đổi. Nhờ thế thơ anh sớm tạo được không gian riêng, cách nói riêng. Phan Văn Chương chứng minh rằng, ở bất kỳ lứa tuổi nào, người ta vẫn có thể tìm cách vượt lên, nếu tự mình khai phá, xác lập được con đường mình đang đi. HOÀNG VŨ THUẬT
Hoàng Vũ Thuật - Lê Thái Sơn - Thiết Mộc Lan - Ngô Hà Phương - Lê Tấn Quỳnh - Nguyễn Quốc Hiền - Phan Bùi Bảo Thy
Năm sinh: 1950Quê quán: Đại Lộc, Quảng NamThơ đã in trên nhiều báo, tạp chí, tuyển tập (1971- 2004)Đã xuất bản: Trong hoàng hôn gió (1995), Trăng của ngày (1999), Thơ bốn câu (2001), Bài ca của gió (2002), Phía sau tôi (2003).
Bóng xưa Đập cổ kính ra tìm thấy bóng Xếp tàn y lại để cầm hơi Tự Đức
TRẦN PHƯƠNG TRÀ Kính viếng bác Hoài Chân Nguyễn Đức Phiên. đồng tác giả “Thi nhân Việt Nam”, 1941
Từ Nữ Triệu Vương - Trần Thị Vĩnh Liên - Chử Văn Long - Lê Văn Kính - Nguyễn Quốc Anh - Ma Trường Nguyên - Tôn Phong - Nguyễn Thánh Ngã - Ngô Đức Tiến - Đặng Nguyệt Anh
Lam Hạnh - Tuệ Lam - Chử Văn Long - Nguyễn Man Kim - Hoàng Vũ Thuật - Khaly Chàm
Tên thật: Nguyễn Phạm Tú TrinhSinh 1983Sinh viên Khoa Ngữ Văn - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vănGiải nhất cuộc thi thơ “Đất nước và lục bát” của báo Tuổi Trẻ. 2003.
NGUYỄN TRỌNG TẠO chọn và giới thiệuThời Thơ Mới ở ta đã có thơ hình thoi, thơ hình tam giác, thơ hình thập giá... Và bây giờ thơ “tân hình thức” của người Việt ở hải ngoại cũng đã làm nao lòng một số người làm thơ trong nước. Những loại thơ hình thức ấy thường là bắt chước những cách tân kỳ dị của thơ phương Tây từ thế kỷ XIX đến ngày nay. Thực ra thì thơ chữ Nho ở ta cũng đã từng có thơ hình tròn, thậm chí có bài đọc được đến 18 cách, nhưng những “người hiện đại” ở ta lại thường vẫn chuộng thơ Tây và từ đó cũng “sáng tạo” ra những hình thức kỳ dị khác gây chú ý cho người đọc (xem).
…Cả rừng cây thấy mẹ cườiMẹ ơi! nước mắt đầy cơi đựng trầuThác ngàn xa vẫn nguyện cầuVô thường! mẹ nhuộm biếc màu trời xanh.
Có phải em là HuếDùng dằng tôi chẳng muốn xaHỡi em gái Huế dạo qua bên cầuMắt đen, tóc mượt mái đầuCười duyên như thể từ lâu thương rồi
Minh Đức Triều Tâm Ảnh - Tùng Bách - Nguyễn Sĩ Cứ - Lê Anh Dũng - Văn Công Hùng - Lê Thiếu Nhơn - Công Nam - Nguyễn Thiền Nghi - Nhất Lâm - Ngô Minh - Trần Văn Khởi - Lê Ngã Lễ - Trương Đăng Dung - Đặng Kim Liên - Tạ Vũ - Nguyễn Ngọc Phú - Nguyễn Hàn Chung