Thơ Sông Hương 04-2000

08:48 01/04/2010
Lê Viết Xuân - Hoàng Sĩ Lưu - Võ Văn Luyến - Nguyên Quân - Vũ Thị Khương - Nguyễn Hữu Hồng Minh - Văn Đắc - Nguyễn Thanh Xuân - Minh Quang - Thai Sắc - Võ Quê - Nguyễn Sĩ Cứ - Thanh Tú

Ảnh: Internet

LÊ VIẾT XUÂN


Nhà mẹ bên sông


Nhà mẹ ở bên sông
Trời chưa mưa đã lụt
Bóng mẹ già côi cút
Giữa nước trời mênh mông...

Nhà mẹ ở bên sông
Lụt vào ra thăm hỏi
Mẹ lưng còng gối mỏi
Như dấu hỏi lặng thầm

Nhà mẹ ở bên sông
Giữa bốn bề gió nổi
Con mẹ đi bộ đội
Sông ơi có biết không?

Nhà mẹ ở bên sông
Sớm chiều vang tiếng trẻ

Dẫu biết là như thế
Vẫn canh cánh bên lòng...

Nhà mẹ ở bên sông
Con mẹ đi bộ đội
Như ngọn lửa âm thầm
Cháy mỗi mùa xuân tới.
Huế, xuân 1999



HOÀNG SỸ LƯU


Tím Huế


Huế nhuộm em tím tự bao giờ
Thả hồn neo đậu Huế mộng mơ
Nghe giọt mưa rơi còn thảng thốt
Nói gì lũ quét xoáy xô bờ

Sớm gửi mùa xuân về cho Huế
Rắc non tơ lên thành nội rêu phong
Cho sông Hương mãi mãi xanh dòng
Nhuộm tím cả ước mong anh đó.


VÕ VĂN LUYẾN


Gửi Huế chín tầng mây


Huế tơ trời giăng trong ký ức
Nắng kim cương đính mấy nóc hoàng thành
Thơ có lúc hôn trầm, chiều nhạt loãng
Lá vô ưu vấn víu suốt cây cành

Huế chiêm bao tóc thề bay trinh nữ
Ngực trăng xưa nhễu giọt nước cành si
Chín tầng mây níu xuống đời đóng mở
Nghe gió đùa tôn nữ đến mê ly.

Huế con cúi ngún lan dần cơn khát
Bể trầm luân gót ngọc của bao giờ
Con tim nhói cất lên thành lời hát
Còn trong sương loáng thoáng nỗi buồn xưa
Huế âu thuyền gối buồn vui Cồn Hến
Câu mái nhì dài hơn cả con sông
Em heo hút cuối chân mày thương mến
Tôi lơ ngơ về giữa Huế mênh mông
                                                Huế 1999


NGUYÊN QUÂN


Tản mạn ngày mưa ở Hòa Duân


Chiều ngun ngút cơn mưa
Cát xe trần bọt sóng
Níu về phía trùng khơi
Vệt chân người lạnh cóng

Từng căn nhà mục ruỗng
Chiều lận đận ghé vai
Biển đau thêm vết xé
Xoáy hút ngày không may

Khúc thần triều đồng vọng
Trên mặt người già nua
Khóe mắt dài thế kỷ
Nhạt mờ nét hơn- thua

Em và con thuyền vỡ
Dựng bãi đời chông chênh
Con chim chiều lạc phách
Thả bóng vào lênh đênh.
                                                13-12


VŨ THỊ KHƯƠNG


Xi măng tuổi 20


Một chặng đường vời vợi 20 năm
Từ cái thuở hoang vu đồi núi
Từ cái thuở bạt ngàn lau sậy
Những triền đồi tím biếc sim mua

Rồi đi xa đến với mọi miền
Những đồng ruộng những mái trường trẻ nhỏ
Xi măng, xi măng góp phần ở đó
Xây dựng nên bền vững những công trình

Cả anh và em giờ ngoảnh lại nhìn
Cái thuở chúng mình chàng trai cô gái
Bây giờ tóc pha sương, xi măng còn trẻ mãi
Sức thanh xuân nhà máy tuổi Hai-Mươi.
                                                1/1/2000


NGUYỄN HỮU HỒNG  MINH


Mấy ý nhỏ về ga


Đêm tối
Đốm lửa nhỏ
Ga

Tàu bít bùng đi
Ga buồn tới số

Tò toe
Hầm hố khả ố
Hùng hục tằng tục
Băm ba băm bổ
Tàu bóc trần híp bao thẻ đường
Ga trơ mặt lộ

Đời người mấy  ga qua?
Đời người vượt bao đêm tối?
Đời người dệt bao ánh lửa huyền thoại?

Đời bao ga khủng hoảng...
                        Một đêm ở ga Diêu Trì 1.2000


VĂN ĐẮC


Đi thuyền sông Hương


Lênh đênh hai mạn thuyền rồng
Bên tôi là phố, bên rừng là ai?
Phố cao nghiêng mặt sông dài
Lấp loi bóng núi lặng ngoài bờ sương
Ngồi thuyền động nước sông Hương
Mà chênh chao cả con đường miền Trung
Nước non hai mạn biển rừng
Mạn lênh đênh sóng, mạn cùng kiệt cây
Bên đông áp vào bên tây
Bên lăn tiếng đá, bên say giọng cười
Ai kê sông lệch bên trời
Để cây ca Huế một đời rơi nghiêng

Huế 1997


NGUYỄN THANH XUÂN


Hội làng


Mùa gom nắng về trên đôi má nâu
Rừng rực nụ cười
Đêm hội làng bập bùng mắt đuốc
Cháy nồng nàn lên ngực nguyên sơ
Bóng em cong vít rượu cần
Những sắc màu lượn lờ mây núi
Có ánh mắt người cùng trăng trượt ngã

Vết phập phồng giữa  suổi tóc thiêng
Ơi! Những nụ cười Ba-na
Ơi! Những nụ cười Hơ-rê
Làng em hội mùa xuân mới
Bềnh bồng điệu múa cồng chiêng
Chếnh choáng nồng say hương núi
Cơn gió nghẹn giữa vòng xoang siết chặt
Đêm hội làng ngọn lửa cháy âm âm...


MINH QUANG


Viết bên Đài tưởng niệm


Cảnh xưa giờ đổi khác
Người xưa nay đâu rồi
Uy linh đài tưởng niệm
Khắc sâu thời sục sôi...

Ai xưa tóc nhuốm bạc
Ai nay mắt mờ đi
Gặp nhau, lời nghẹn lại
Chỉ trái tim thầm thì
                                   1.1998


THAI SẮC


Chiều mưa trên sông Kiến Giang


Chiều mưa trên sông Kiến Giang
Con đò chòng chành sang ngang
Một người tan vào trắng xóa
Một người tan vào nhớ thương...

Người xa mưa như khúc hát
Hòa âm nỗi đau đất trời
Dòng sông sợi dây đàn đứt
Kịp ngân một nốt nhạc rơi...

Người đi mút mùa Lệ Thủy
Nhớ chi vạt cát bến Chền
Nhớ chi mưa chiều sông nhỏ
Nhớ chi tóc hờn ướt đêm

Một đi chưa lần trở lại
Mênh mông bến cũ mưa đầy
Đời người như dòng sông chảy
Ai còn ngược sóng tìm ai?
                                   10.1998


VÕ QUÊ


Bài ngợi ca ruộng đồng


Đồng ruộng Phú Lương như một mâm vàng
Làng xóm bao quanh thành vòng tay ôm lúa
Người thương đất chung lòng gìn giữ
Vui những mùa bội thu

Người Phú Lương chân chất hiền từ
Quanh năm tay bùn chân lấm
Đời thanh thản cùng nhịp đi năm tháng
Những cánh cò chịu khó chịu thương

Lúa gạo nhiều hèn chi gọi Phú Lương
Cái tên gợi bao điều no ấm
Diều trẻ thơ bay trong chiều gió lộng
Con gái con trai thơm tuổi học trò

Đã qua rồi cái tuổi hoang sơ
Từng mơ ước chắt chiu trong lòng mẹ
Đất thương người đơm vàng từng nhánh lúa
Chén cơm thơm tà áo đẹp cho đời

Đụn rơm vàng lúa ngập sân phơi
Là thành quả mấy mùa mưa nắng
Xin ngợi ca những con người thầm lặng
Đang ươm mầm hạnh phúc gửi mai sau
                                 Phú Lương - Phú Vang
                                     27 - 11 - 1999


NGUYỄN SĨ CỨ


Ngộ


Em đi về phía dại khờ
Anh lo cái nỗi con bò trắng răng
Em đi cùng cuội bán trăng
Anh thương cái nỗi ả Hằng nằm suông
Đêm qua trời vén màn sương
Anh cười cái nỗi ẩm ương sự đời.


THANH TÚ


Làng trăng


Con nước cuối làng chở trăng lên phố
Đêm nhẹ tênh! sương rơi...
Lặng lẽ con đường em đi bên tôi
Tìm lại dấu xưa một thời thơ ấu
Trăng chảy xuống những cánh dừa lấp lánh
Đường Bút Sơn ai vẽ một gam màu?
Cơn gió lùa ta tựa sát vào nhau
Trơì lạnh giá chúng mình đâu rét buốt
Như những hàng dừa bốn mùa quả ngọt
Bao đời nay xanh nên phố, nên làng!
Một tiếng hò bên ấy vọng sang
Nghe da diết phía bên này sông Mã
"Bãi Dân Quân" dưới đêm trăng thật lạ!
Ta bên nhau không khéo lạc lối về...
Đêm Bút Sơn chở nặng nỗi đam mê
Những chuyến đò trăng cuối làng lên phố...
                               Bút Sơn, tháng 12-1999

(134/04-00)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Ditimloigiaicuocdoi là nickname của Bụi Trần đang “bế tắc chưa tìm lối thoát cho bệnh tật và đã sống như một phế phẩm suốt 5 năm tròn”. Thơ, hẳn là niềm ân sủng duy nhất có thể cứu rỗi tâm hồn của người bạn nhỏ đáng thương này dẫu Bụi Trần đang muốn khám phá nhiều thể loại khác nữa. Chúng tôi đọc được ở thơ Bụi Trần lời tri âm trong bản nhạc vút lên từ địa ngục của một nhạc sĩ quá cố. Nhưng ước vọng thoát khỏi niềm đau mang bản chất định nghiệp tại mỗi người là không lẫn lộn... TCSH

  • Điều bình thường lạ lẫm

  • Được nhìn lại Huế

  • Lê Vi Thủy - Thái Hải - Phạm Nguyên Tường - Lê Huy Hạnh - Nhất Lâm - Nguyễn Hoa

  • Huỳnh Quang Nam - Huy Phương - Trần Dzụ - Trần Hữu Lục - Lê Huy Mậu - Tôn Nữ Ngọc Hoa - Hồ Ngọc Chương

  • ĐINH THỊ NHƯ THÚYĐã buồn trước cho những ngày chưa đếnnhững chia xa đang sum họpnhững mỏi mệt đang hân hoannhững bóng tối khuất lấp đang rực sángĐã nhìn thấy vết chémròng ròng máu đỏ tươi trên da thịtnhư nhìn thấy bước chân người hành khấtchậm rãi lê trên đường

  • Ở những đỉnh cột

  • Sinh năm Nhâm Thìn, Phan Văn Chương từng tham gia quân đội, hiện là hiệu trưởng trường THCS Quảng Phương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Thơ đến với anh như người tình muộn. Có điều anh biết chọn lọc, học hỏi, vượt qua những cản trở thế tục, tiếp thu cái mới của đời sống văn học hôm nay đang chuyển đổi. Nhờ thế thơ anh sớm tạo được không gian riêng, cách nói riêng. Phan Văn Chương chứng minh rằng, ở bất kỳ lứa tuổi nào, người ta vẫn có thể tìm cách vượt lên, nếu tự mình khai phá, xác lập được con đường mình đang đi.                                     HOÀNG VŨ THUẬT

  • Hoàng Vũ Thuật - Lê Thái Sơn - Thiết Mộc Lan - Ngô Hà Phương - Lê Tấn Quỳnh - Nguyễn Quốc Hiền - Phan Bùi Bảo Thy

  • Năm sinh: 1950Quê quán: Đại Lộc, Quảng NamThơ đã in trên nhiều báo, tạp chí, tuyển tập (1971- 2004)Đã xuất bản: Trong hoàng hôn gió  (1995), Trăng của ngày (1999), Thơ bốn câu (2001), Bài ca của gió (2002), Phía sau tôi (2003).

  • Bóng xưa            Đập cổ kính ra tìm thấy bóng                Xếp tàn y lại để cầm hơi                                                Tự Đức

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ                                                 Kính viếng bác Hoài Chân Nguyễn Đức Phiên.                 đồng tác giả “Thi nhân Việt Nam”, 1941

  • Từ Nữ Triệu Vương - Trần Thị Vĩnh Liên -  Chử Văn Long - Lê Văn Kính - Nguyễn Quốc Anh - Ma Trường Nguyên - Tôn Phong -  Nguyễn Thánh Ngã - Ngô Đức Tiến - Đặng Nguyệt Anh

  • Lam Hạnh - Tuệ Lam - Chử Văn Long - Nguyễn Man Kim - Hoàng Vũ Thuật - Khaly Chàm

  • Tên thật: Nguyễn Phạm Tú TrinhSinh 1983Sinh viên Khoa Ngữ Văn - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vănGiải nhất cuộc thi thơ “Đất nước và lục bát” của báo Tuổi Trẻ. 2003.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO chọn và giới thiệuThời Thơ Mới ở ta đã có thơ hình thoi, thơ hình tam giác, thơ hình thập giá... Và bây giờ thơ “tân hình thức” của người Việt ở hải ngoại cũng đã làm nao lòng một số người làm thơ trong nước. Những loại thơ hình thức ấy thường là bắt chước những cách tân kỳ dị của thơ phương Tây từ thế kỷ XIX đến ngày nay. Thực ra thì thơ chữ Nho ở ta cũng đã từng có thơ hình tròn, thậm chí có bài đọc được đến 18 cách, nhưng những “người hiện đại” ở ta lại thường vẫn chuộng thơ Tây và từ đó cũng “sáng tạo” ra những hình thức kỳ dị khác gây chú ý cho người đọc (xem).

  • …Cả rừng cây thấy mẹ cườiMẹ ơi! nước mắt đầy cơi đựng trầuThác ngàn xa vẫn nguyện cầuVô thường! mẹ nhuộm biếc màu trời xanh.

  • Có phải em là HuếDùng dằng tôi chẳng muốn xaHỡi em gái Huế dạo qua bên cầuMắt đen, tóc mượt mái đầuCười duyên như thể từ lâu thương rồi