Thơ Margaret Atwoods

09:39 20/08/2008
Margaret Atwoods là một trong số nhà thơ viết bằng tiếng Anh hàng đầu ở . Sinh năm 1939. Bà đã xuất bản trên 10 tập thơ, trên 10 tiểu thuyết, một số sách phê bình và sách cho trẻ em, đã nhận nhiều giải thưởng và bằng cấp danh dự. Gần nhất là Giải Pulitzer 2001 về tiểu thuyết. Thơ M.Atwoods đầy tinh thần phản kháng, trầAn trụi và khốc liệt khi cần vạch trần sự thật về thân phận người đàn bà ở khắp nơi trên thế giới, một mặt lại vỗ về nâng giấc che chở đối với người mình yêu. Quả là một nữ tính của thế kỷ. HOÀNG HƯNG chuyển ngữ từ nguyên bản.




Ghi chú cho một bài thơ có thể không bao giờ được viết

I.

Đây là nơi
thà ta đừng biết tới
đây là nơi sẽ chiếm giữ hồn ta
đây là nơi ta không thể hình dung
đây là nơi cuối cùng sẽ đánh bại ta

nơi tiếng
tại sao tự nó sẽ héo hon và trống rỗng.
Đó là nạn đói.

II.
Không bài thơ nào có thể viết
về nó, những dải cát
bao xác người chôn xuống
đào lên, nỗi đau không chịu nổi
còn vằn trên da họ.

Chuyện không xảy ra năm ngoái
hay 40 năm trước mà là tuần trước.
Chuyện đã xảy ra còn kéo đến bây giờ
Chuyện đang xảy ra.

Chúng ta kết những vòng hình dung từ cho họ,
chúng ta đếm họ như lần tràng hạt,
chúng ta đưa họ vào thống kê và kinh kệ
vào những bài thơ như bài này.

Chẳng có gì được việc.
Họ thế nào vẫn nguyên thế ấy.

III.
Người đàn bà nằm trên sàn xi măng ướt
dưới ngọn đèn không bao giờ tắt
những vết kim đâm vào cánh tay
để giết trí não
chị tự hỏi vì sao mình chết.

Chị chết vì đã nói
Chị chết cho quyền của ngôn từ
Chính thân thể chị, lặng im
không có ngón tay, đang viết bài thơ này.

IV.
Giống như cuộc giải phẫu
nhưng không phải
cũng không phải, dù có rạng chân, có rên rỉ
và máu, không phải sự sinh nở.

Có phần là một công ăn việc làm,
có phần là biểu diễn kỹ năng
giống như cuộc hoà tấu.
Một công việc mà người ta có thể làm tồi
hay làm giỏi, họ tự nhủ.

Có phần là một nghệ thuật

V.
Những thực tế trên đời này nhìn rõ
là nhìn qua nước mắt
vậy hãy nói tôi hay
vì sao còn có cái mắt tôi nhìn lầm?

Nhìn cho rõ và không nao núng
không quay đi,
đây là cơn hấp hối, mắt mở to
cách mặt trời hai phân.

Khi ấy điều gì ta nhìn thấy?
Ac mộng hay quáng mắt?
Ao ảnh?
Điều gì ta nghe thấy?

Lưỡi dao cạo rạch ngang tròng mắt
là chi tiết trong cuốn phim cũ
Đó cũng là một sự thật.
Làm chứng là việc ta phải gánh.

VI.
Ở xứ này ta có thể nói gì tuỳ thích
bởi dù sao cũng chẳng ai thèm nghe
như vậy đủ an toàn, ở xứ này ta có thể thử viết
bài thơ có thể không bao giờ được viết
bài thơ không bịa đăt gì
không bỏ qua gì
vì mỗi ngày ta vẫn bịa đặt và bỏ qua cho chính mình.

Ở nơi khác, bài thơ này không phải là bịa đặt
Ở nơi khác, bài thơ này đòi dũng cảm
Ở nơi khác, bài thơ này phải được viết ra
vì các nhà thơ đều đã chết.

Ở nơi khác, bài thơ này phải được viết ra
như thể ta đã chết,
như không thể làm gì hơn
hoặc nói gì hơn để cứu vớt ta.

Ở nơi khác ta phải viết bài thơ này
bởi không có gì hơn để làm.

Biến tấu trên từ ngủ

Em muốn nhìn anh ngủ,
Điều này có thể không xảy ra.
Em muốn nhìn anh,
ngủ. Em muốn ngủ
với anh, đi vào
giấc ngủ anh khi làn sóng tối êm của giấc ngủ anh
lướt bên trên đầu em

muốn bước cùng anh qua khu rừng sáng
nhấp nhô lá xanh
mặt trời đẫm nước và ba mặt trăng,
đi về phía cái hang mà anh phải xuống
về phía nỗi sợ tệ hại nhất của anh.
Em muốn tặng anh cành cây
bạc, bông hoa trắng nhỏ, một
tiếng chở che anh
khỏi nỗi sầu muộn nơi trung tâm
giấc mộng, khỏi nỗi sầu muộn
nơi trung tâm. Em muốn theo
anh lần nữa
lên chiếc cầu thang dài
và trở thành
con thuyền chèo đưa anh trở về
cẩn thận, một ngọn lửa
giữa hai bàn tay khum.
tới nơi thân thể anh nằm
bên em, và anh nhập vào đó
dễ dàng như hít vào

Em muốn là không khí
trú ngụ trong anh chốc lát
thôi. Em muốn là cái anh không để ý
và cái anh rất cần


(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI KIM LAN

    KINHIN* im Frühling
    (*Das Gehen in Achsamkeit und Bewußtheit)

  • EVGHÊNI EVTUSENKÔ

    Tưởng niệm Anđrây Đimitiêvich Xakharôv

  • LTS: Ca khúc “Thời gian đang chuyển mình” được phát hành trong album cùng tên vào năm 1964. Dylan viết ca khúc này nhằm phản ánh những sự biến đổi của thời cuộc.

  • Thi sĩ Christopher Merrill được giới phê bình văn chương Mỹ trân trọng, như W.S. Merwin đánh giá, là “một trong những nhà thơ tài năng, táo bạo, và thành công nhất của một thế hệ thi ca hiện đại.”

  • Nhà thơ Müesser Yeniay, sinh năm 1984, tại Izmir - Thổ Nhĩ Kỳ. Chị tốt nghiệp Đại học Ege môn Anh ngữ và Văn học, nhận bằng Tiến sĩ Văn học Thổ Nhĩ Kỳ tại Đại học Bilkent. Chị từng đoạt một số giải thưởng Văn học tại Thổ Nhĩ Kỳ. Thơ Müesser Yeniay đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Müesser Yeniay hiện là biên tập viên Tạp chí Văn học Şiirden, Thổ Nhĩ Kỳ.

  • Jan Skacel (1922 - 1989) là một trong số những nhà thơ chủ chốt trong văn học Séc nửa sau thế kỷ 20. Ông cũng là nhân vật có vai trò quan trọng trong đời sống văn học Tiệp Khắc với tư cách là Tổng Biên tập tạp chí Host do domu trong các năm từ 1963 đến 1969.

  • LTS: Khi Sông Hương gửi những dòng thơ này đến với bạn đọc thì Paris đã yên bình sau cơn ác mộng khủng bố IS. Nhân loại đang đứng bên người Pháp: “Je suis Paris! Tôi là Paris! Nhân loại là Paris!” Lá cờ nước Pháp nhung phủ hàng triệu gương mặt người. Và những bài thơ dành cho Paris đã ngân lên, đơn giản, đó là biểu tượng xứ sở nghệ thuật của thế giới, là nơi Cách mạng Pháp với Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền đã mở ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới cho nhân loại…


  • Buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, bạn làm gì?

  • LTS: "Maiacôpxki là lá cờ đầu của thơ ca tháng Mười. Và làm thơ ca ngợi cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, ông luôn luôn đặt ra những câu hỏi lớn về viễn cảnh của cuộc cách mạng, về tương lai của nhân loại.

  • LGT: Nhà thơ Charles Simic sinh vào ngày 9/5/1938 tại Nam Tư, nơi ông có một tuổi thơ đau thương trong chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1954, ông theo gia đình di cư sang Mỹ.

  • JOSEPH BRODSKY

    LTS: Sinh năm 1940 tại Peterbuorg. Năm 1970, ông sang định cư ở Mỹ và dạy học tại Đại học Columbia. Ông làm thơ bằng tiếng Nga và tiếng Anh. Năm 1987 ông đoạt giải Nobel văn chương.
    Những bài thơ Sông Hương chọn giới thiệu được trích trong tập “Tĩnh vật và những bài thơ khác” từ bản dịch của Hoàng Ngọc Biên.

  • Billy Collins (sinh ngày 22/3/1941) là thi sĩ nổi tiếng ở Mỹ. Ông đã từng hai lần được bầu là Thi bá, hay còn gọi là Nhà thơ danh dự (Poet Laureate) của Hoa Kỳ, lần đầu vào năm 2001 và lần thứ hai vào năm 2003. Trong các năm từ 2004 đến 2006 ông được bầu là Thi sĩ của bang New York.

  • LGT: Nakahara Chuya (Trung Nguyên Trung Dã) (1907-1937) là một gương mặt chói ngời của văn học Nhật Bản cận đại dù mất ở tuổi ba mươi và chỉ kịp để lại hai thi tập “Bài ca sơn dương” (Yagi no uta) và “Bài ca ngày tháng cũ” (Arishihi no uta).


  • A. VÔZNHÊXENXKI

  • LTS: Ngày 18-2-1987, phiên họp của Ban thư ký Hội nhà văn Liên Xô đã hủy bỏ quyết định năm 1958 khai trừ nhà thơ, nhà văn Xô-viết Bôrít Pasternak ra khỏi Hội nhà văn.

  • Liana Margescu sinh ngày 7/5/1969 tại Campulung Muscel, ở Romania trong một thị trấn nhỏ miền núi. Vì là đứa con duy nhất nên người cha còn hơn là hình tượng một người cha đã đóng một vai trò thiết yếu trong sự trưởng thành của con gái. Một người cha dạy những giá trị đích thực của đời sống, như là tình bằng hữu, tự do, sự thật, ngay cả khi Romania nằm dưới sự kiểm soát của chế độ chuyên chế Ceausescu. Tác giả đã nhận được giải thưởng ở Italia.

  • Jaroslav Seifert - Frana Sramek - Miroslav Kapek - Michal Cernik

  • Gwendolyn Elizabeth Brooks (1917 - 2000), là nhà thơ Hoa Kỳ gốc châu Phi. Bà từng có thơ đăng tạp chí từ năm 13 tuổi. Năm 1950 bà được giải Pulitzer về thơ, và như thế là người da đen đầu tiên ở Hoa Kỳ có vinh dự này.

  • A.X.PUSKIN

    Khúc ca về Ô leg minh quân