Thơ Huế nhìn sang đường biên thế kỷ XXI - Từ thực tiễn đến dự cảm

10:09 20/05/2009
HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

1. Thơ Huế từ thực tiễn ...

Thành tựu thơ Huế 25 năm qua như đã chứng minh là một may mắn. Như là một quá trình liên tục, một dòng chảy không tách rời, thơ Huế đã làm một cuộc chạy đua tiếp sức cho thơ các giai đoạn trước với khuynh hướng vận động mới, đồng thời, nó cũng nhìn về tương lai với những dự kiến có thể xảy ra, những biến động trên cơ sở thực tại để định hướng cho cả một giai đoạn thơ.

Căn cứ đội ngũ, thành tựu cũng như đặc điểm làm nên chất thơ 25 năm qua, chúng ta thử nghĩ đến diện mạo thơ Huế trong năm năm sắp đến, bắt đầu từ năm bản lề để giã từ và chào đón của hai thế kỷ. Cách nhìn này không phải là việc làm ghê gớm lắm, bởi lẽ những biến động về thi pháp, những dự báo bùng nổ thi ca Việt Nam, theo các nhà nghiên cứu, vẫn chưa có cuộc cách mạng thi ca nào có thể xảy ra cho đến giữa thế kỷ XXI. Nhưng trong từng thời kỳ nhỏ sẽ có sự thay đổi về chất. Cho nên, mức độ nào đó, nếu chúng ta nhìn nhận có cơ sở sẽ giúp cho việc định hướng giai đoạn thơ ca mới bằng chính nỗ lực của mình. Vùng đất Thừa Thiên Huế với những đặc điểm về vị thế, tiềm năng của nó, có thể tạo được nét riêng cho mình mà vẫn không xa lạ hay lạc lõng với thi ca cả nước. Làm được điều này, thiết tưởng cần thiết, dù biết là khó và cũng có thể sai lệch hoàn toàn nếu những dự đoán không hiện lên thành hiện thực. Nhưng về mặt khác, nó lại có khả năng đánh thức những tiềm lực nào đó ở những người sáng tạo hiện nay và những thế hệ cầm bút tương lai ở một vùng đất đầy khát vọng.

Rõ ràng là nhìn đến cái đích của một nền thơ Việt hiện đại, thơ Thừa Thiên Huế đã đồng hành và tiếp cận về hướng ấy. Tính chất dân chủ, đổi mới của đời sống xã hội, khuynh hướng nhận thức tốt đã đặt ra từ chủ thể sáng tạo, cộng với các phương tiện thông tin đại chúng (mass -média) ngày nay đã cho phép văn học vươn lên chiếm lĩnh những vấn đề mới mà thế giới hiện đại đặt ra. Sự tác động của văn học đến con người, yêu cầu thưởng thức của độc giả... khiến những đòi hỏi trên trở thành nhân tố bức thiết, những dấu ấn của một vùng đất phải được hiện lên trên trang viết. Và từ những trang viết ấy phải hình thành cho được những cá tính sáng tạo. Nếu không làm được điều này, đặc trưng vùng sẽ không xác định. Vùng đất văn học càng giàu có bao nhiêu thường được đo bằng số lượng những cá tính sáng tạo độc đáo bấy nhiêu...

Cá tính sáng tạo, hay bản sắc, cao hơn là phong cách chính là nét độc đáo riêng trong cách cảm, cách nghĩ, cách tiếp cận hiện thực đời sống qua hệ thống đề tài, chủ đề; qua những hình tượng cảm xúc, mang dấu ấn của một vùng đất và quan niệm sáng tác với bút pháp, ngôn ngữ riêng. Khả năng đổi mới, sáng tạo của nhà nghệ sĩ qua tác phẩm của họ sẽ chứng minh, quyết định điều đó. Xét góc độ này, quả là các nhà thơ Thừa Thiên Huế đã làm được trong 25 năm qua.

Mười năm đầu (1975 - 1985) sau sự chững lại như một bước định hướng, thơ nhanh chóng quay về ưu tiên thể hiện đề tài kháng chiến. Trong các tác phẩm này, tuy bút pháp đã có sự gia giảm nhưng nhìn chung hướng ngoại vẫn là khuynh hướng chủ yếu. Không khí thời chiến, hiện thực chiến trường là cơ sở quy định tính hào hùng, sử thi của nội dung. Những trường ca của Nguyễn Trọng Tạo, tác phẩm của Thanh Hải, Hải Bằng, Xuân Hoàng, Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Nguyễn Quang Hà, Hà Khánh Linh, Nguyễn Quang Lập... chủ yếu mang âm hưởng này. Dễ dàng nhận thấy bút pháp giai đoạn này không khác xa bút pháp giai đoạn trước năm 1975 là mấy. Khác chăng ở cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề. Có điều, không phải ai cũng thành công trong chủ đề này. Nhiều bài thơ còn dễ dãi, đơn điệu, cấu tứ cũ, ngôn ngữ sáo rỗng. Sau Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ VI và nghị quyết IV của Trung ương về Văn hóa văn nghệ cùng với các khuynh hướng dân chủ hóa, nhân đạo hóa, khuynh hướng nhận thức tối đa trong ý thức nghệ thuật của nhà thơ, các hạn chế này dần dần được khắc phục, và có những chuyển biến tốt.

Sự đổi mới của văn học 15 năm tiếp theo 1985 - 2000 là việc ưu tiên thể hiện con người cá thể. Khuynh hướng đi vào bề sâu của nội tâm đã giúp cho việc thể hiện cái tôi trong thơ trữ tình hiện lên tập trung, đậm nét. Từ tư duy thơ lặng lẽ, ưu tiên chiêm cảm những vấn đề thuộc về tâm linh, tình cảm con người, sau đó, lắng nghe mình, các nhà thơ thời chống Pháp, chống Mỹ đã ổn định bút pháp, chín lại trước hiện thực mới. Ở thơ họ, đều diễn ra quá trình từ cái chung hào hùng trở về cái riêng lặng lẽ, và ổn định, hài hòa dần trong phương thức thể hiện. Xuân Hoàng, Hải Bằng, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Trọng Tạo, Hồng Nhu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Vũ Thuật... là những tác giả tiêu biểu. Cũng cần thấy rằng trong thành quả chung ấy, có người đã tỏ ra mệt mỏi, tụt lại phía sau hoặc có người từ thái cực này sang thái cực khác vì không nhận rõ bản chất cực kỳ quan trọng của bước chuyển, nên hiệu quả nghệ thuật không cao.

Như vậy là xét bước phát triển của một giai đoạn thơ phải căn cứ trên tiêu chí ổn định, lặp lại, đồng thời trên bình diện của những yếu tố không lặp lại. Yếu tố lặp lại thể hiện nét phong cách, bản sắc của cá nhân, của nền thơ. Yếu tố không lặp lại thể hiện bước tiến mới của chính bản thân thể loại. Thơ Thừa Thiên Huế đạt được những đặc điểm trên một cách rõ ràng.

Cần lưu ý mặt này ở các cây bút trẻ. Họ có cái háo hức, say mê của người mới cầm bút nhưng lại thiếu nhiều tiêu chuẩn để có thơ hay, tác phẩm hay. Nhiều tập thơ mới xuất bản đã nhanh chóng bị thờ ơ, mai một. Họ có cái hồn nhiên say đắm riêng nhưng lại thiếu nhiều yếu tố khác để trở thành chững chạc, sâu lắng. Họ nói nhiều, lạm phát thơ tình bằng những cảm xúc non yếu, ngôn ngữ gò bó, giả tạo nhưng lại quá lười biếng, mà lẽ ra, họ phải tìm tòi, rung cảm và suy nghĩ nghiêm túc. Chưa kể, có người tìm đến văn chương như một cái mode để cho sang chứ không phải vì say mê và có năng khiếu thật sự. Trong những hạn chế này của các cây bút trẻ, một phần thuộc về trách nhiệm của Hội văn nghệ Thừa Thiên Huế và các cơ quan liên quan trong công tác động viên, rút kinh nghiệm. Quá trình phấn đấu tự phát đã làm cho nhiều cây bút trẻ rơi rụng. Trong số họ, ai chịu học hỏi, tìm tòi và thực sự có ý chí vươn lên thì họ tự khẳng định và có dấu hiệu triển vọng; còn những ai lơ là, tự thỏa mãn và tự phụ sớm thì dấu hiệu của sự chững lại, sút kém là kết quả nhãn tiền.

Bước phát triển của một vùng thơ trong từng giai đoạn cụ thể phụ thuộc vào một yêu cầu có tính nguyên tắc: là phải có nhiều thơ hay, nhiều phong cách, cá tính độc đáo cũng như đạt được tính hài hòa về mọi phương diện. Sự biến đổi, đổi mới dù có hiện đại, ý nghĩa bao nhiêu cũng phải chú ý nguyên tắc này. Nghiêm túc mà nói, nhiều nhà thơ Thừa Thiên Huế trong 25 năm qua được cả nước biết đến và ghi nhận sự đóng góp công sức của họ. Tác phẩm của họ được giới thiệu, in ấn trong nước và một số nước trên thế giới. Thường những tác phẩm ấy kết hợp được sự phát hiện của chủ thể sáng tạo và yêu cầu của cuộc sống; giữa công chúng và sự vận động của thể loại. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Hoàng Vũ Thuật, Hồng Nhu, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Khắc Thạch, Ngô Minh, Nguyễn Khoa Điềm, Hải Bằng, Xuân Hoàng... là những nhà thơ đã tạo được sự hài hòa đó và thật sự có bản sắc, cá tính độc đáo, trở thành tiềm lực hùng hậu của khả năng thơ Thừa Thiên Huế.

2 ...đến dự cảm, nhìn sang đường biên của thế kỷ XXI.

Lấy mốc từ 1975 đến nay, có thể thấy thơ Thừa Thiên Huế có sự vận động và phát triển theo chiều hướng khác - chiều hướng thuận so với giai đoạn trước. Thơ bây giờ tĩnh hơn, cái tĩnh cần thiết để cho thơ thâm nhập vào bề sâu của cảm xúc, tâm trạng. Làm một phép thử, dễ dàng nhận thấy các cây bút trẻ còn yếu (trừ một vài người thành công bước đầu). Đội ngũ có sự so le về chất. Không khí học hỏi, trao đổi nghề nghiệp trong các hội còn yếu. Vốn sống và ý thức tích luỹ từ đời sống không nhiều. Cho nên, trong số nhiều cây bút trẻ, tìm một vài người có tiếng nói riêng là rất hiếm. Điều này có ảnh hưởng đến chất lượng thơ, nhìn sang đường biên của thế kỷ XXI. Trái lại, trên cái nền sẵn có, có thể khẳng định rằng các nhà thơ lớp chống Pháp, đặc biệt là lớp chống Mỹ đang và sắp tới sẽ là lực lượng chủ chốt. Bạn đọc hy vọng ở lớp nhà thơ này nhiều hơn. Ở họ, ngày càng vươn lên thể hiện được sự hài hòa trong thi pháp biểu hiện. Họ có kiếm tìm, thể nghiệm chứ không thụ động. Nguyễn Khắc Thạch là một hướng tìm tòi độc đáo, ở chất ảo và tạo nghĩa: “Bên thềm hoang - Thiếu phụ - Thoát y nằm - Ngọn nến cháy - Sau vầng trăng khuyết“, có khi là sự “tự đốn ngộ” trước nỗi đau của chính mình:

Em đã nói lời có đáy
Trên dòng sông suy tưởng
Tôi như gã tín đồ
Bị rút phép thông công
Khi thiên đàng dang ngang sợi tóc.

Trong khi đó, Mỹ Dạ, Ngô Minh, Nguyễn Khoa Như Ý lại đi về một hướng khác, khai thác mặt vô thức, giấc mơ, tâm linh, thơ tự do... Theo hướng kiếm tìm này, Lâm Thị Mỹ Dạ đã tăng cường yếu tố hiện đại cho thơ mình qua tập Viết tặng nỗi buồn riêng.Trong bài thơ Giấc mơ, hình ảnh chú bé và nhà thơ, chú chim nhỏ hoà quyện vào nhau trong giấc mơ tuyệt đẹp:

Bay qua, bay qua nghìn đêm
Bay qua, bay qua ngàn sao
Những chiếc lá phát sáng màu huyền thoại
Những bông hoa mang hình bàn tay ngón tay
Ru, ru , ru, ru
Ru êm

Cuối cùng, hình ảnh thơ bị phân thân rồi lại hội nhập trong trạng thái thăng hoa của chủ thể trữ tình: “Chú bé là ai - Chú bé là tôi - Con chim là ai - Con chim là tôi - Giấc mơ là ai - Giấc mơ là tôi“.

Hồng Nhu, Xuân Hoàng nghiêng về hoài niệm, pha chút Phật, Thiền. Còn Nguyễn Trọng Tạo cố gắng vươn đến tính hiện đại của thơ cả nước nhưng vẫn bám lấy nền truyền thống. Ví như bài thơ hai câu sau đây được anh viết trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê: “Sông Hương hóa rượu ta đến uống - Ta tỉnh đền đài ngã nghiêng say”. Cái kiểu đồng dao cho trẻ em lại trở thành những chiêm cảm đồng dao cho người lớn. Tính hiện đại nằm trong hình tượng thơ và động thái thơ Nguyễn Trọng Tạo là những thể nghiệm thành công:

Là khi cạn một ly tràn
Đáy ly ta lại thấy làn mi xanh
Mi xanh buồn đến long lanh
Gặp long lanh thấy mong manh là buồn
Buồn đừng đi buồn đừng tan
Mất buồn còn lại tro tàn mà thôi
Buồn ơi buồn có thương tôi
Đừng làm tôi phải mồ côi nỗi buồn

Lê Thị Mây có sự thể nghiệm ở lối thơ Haicu (Nhật Bản) và đổi mới vần nhịp thơ lục bát. Cái mới của thơ chị là từ những bài thơ ba câu kiểu Haicu như bài Ba đoá hồng, chị viết : “Hương đoá này thơm lẫn đóa kia - Những nụ hôn thiêng liêng đến vậy - Nửa phần gai , nửa phần hoa lộng lẫy”, chị đã ghép lại thành những bài thơ nhiều khổ, mỗi khổ ba câu. Đó là sự phá thay vậy.

Hải Bằng thành công ở thể thơ hai câu thông qua bút pháp đối lập, làm đẹp ý nghĩa và đối tượng miêu tả:

- Mùa đông em lấy lửa của tôi đi
  Để mùa hạ tôi trở thành đám cháy
- Em cho tôi những quả chín trong vườn
  Tôi chỉ nhận chùm trăng trước cửa

Hoàng Phủ Ngọc Tường ổn định với các thể thơ sẵn có mà vẫn thu hút, hiện đại bởi chất triết lý và những ám ảnh hiện sinh: “Có buổi chiều nào như chiều nay - Căn phòng anh bóng tối dâng đầy - Anh lặng thầm như là cái bóng - Hoa tàn một mình mà em không hay”. Từ những cách nói lạ ấy, anh hướng chất thơ của mình vào những triết lý sống vĩnh cửu:

Cánh phù du bay hoài không nghỉ
Chút thời gian lay động ở trên cao
Bụi phù du kết thành tinh thể
Người trần gian mê mải nhìn sao.

Mãi mãi ngàn năm, tình yêu là vĩnh viễn :
Từ đó những vì sao Hy Lạp
Trong thiên thu mang khát vọng con người
Từ đó trên trời đêm Hy Lạp
Niềm say mê cháy mãi khôn nguôi

Tính hiện đại còn thể hiện trong thơ của nhiều tác giả, xét ở những yếu tố lặp lại ổn định và những yếu tố tìm tòi, có phủ định và không lặp lại:
Với Nguyễn Khoa Điềm:
Bây giờ lật lại trang thơ
Tôi muốn đặt mình lên từng con chữ
Để được sưởi dưới mắt em xa vắng vô bờ

Và Văn Cầm Hải:
Đời chị
Như viện bảo tàng
Có nhiều mặt nạ đàn ông
Giờ đây
Có ngày yên mệnh
Tuổi chị về qua đôi  chân dài óng mượt
Hoặc:
Em ném vào ngõ tối, nỗi âm thầm lá tre rơi
Anh tật nguyền ve vuốt đôi bàn chân đất lấp

Tất cả các nhà thơ này họp thành lực lượng đông vui và hứa hẹn một mùa thơ bội thu cho những năm đầu thế kỷ XXI, với một ước vọng và mục tiêu sáng rõ: “Phải sống thật với chính mình - thật đến nỗi vắt kiệt sức mình, phơi bày tận cùng cái xấu, cái tốt, cái đẹp, cái phù phiếm của chính mình. Và từ đó, nhìn ra tha nhân. Ở đó, thơ chính là tấm gương soi, phản chiếu tâm hồn mình vô cùng chân thật”, “Hãy sống đến tận cùng cái tôi của ta và cái ta của mọi người - có thể có thơ hay” (Mỹ Dạ). Đó cũng chính là tâm niệm, là định hướng của các nhà thơ Thừa Thiên Huế trên hành trình đi tìm cái mới, cái đẹp, cái hài hòa cho thơ đầu thế kỷ XXI.

So với thơ hai trung tâm lớn ở hai đầu Tổ quốc thì thơ Thừa Thiên Huế trầm lắng mà dữ dội hơn. Chất miền Trung nắng lửa, khốc liệt, con người miền Trung gian lao mà vững chãi nhân ái, mảnh đất eo hẹp mà độ lượng, hiền hòa là cội nguồn của chất thơ Thừa thiên Huế. Mọi ồn ào, tranh luận qua các cuộc thi thơ, hội thảo thơ đã chứng tỏ điều đó. Các nhà thơ Thừa Thiên Huế đang hướng những nỗ lực của mình vào những tìm tòi khó khăn mà có ích, không sa vào những cuộc đấu đá vô bổ. Các nhà nghiên cứu, phê bình đều nhất trí ở cách nhìn thận trọng khi khảo sát thơ Thừa Thiên Huế. Không có những hiện tượng thơ làm tổn hao giấy mực nhưng vô tăm tích như hai đầu Tổ quốc nhưng lại có những hiện tượng thơ đáng suy ngẫm như Nguyễn Khắc Thạch, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Mỹ Dạ, Lê Thị Mây... Trong lớp trẻ có Văn Cầm Hải với tập Người đi chăn sóng biển, Phạm Nguyên Tường với tập Hoa cúc mùa thu, Lá tháng chạp... Xét về nét riêng và sự đóng góp của một vùng đất vào văn học cả nước, không thể bỏ qua thực tế này.

Ở đây, cần nêu ra một hiện tượng mà nhiều người quan tâm, lo lắng. Đó là số lượng thơ in ngày càng nhiều hiện nay. Thử đánh giá và tìm một hướng đi, nếu không, tính hội tụ của một vùng thơ dễ bị loãng. Quả là không có những tập thơ dở lắm, trái lại, thơ hay, khá ngày càng tăng. So với các tỉnh khác trong cả nước, Huế là một trong ba trung tâm mạnh xét ở tính thống nhất mà đa dạng của chất thơ, nhưng vẫn giữ được nét riêng đặc thù. Các cây bút trẻ đang cố gắng khẳng định mình. Từ cái nền này, ngay từ bây giờ cần phải tính đến khả năng và triển vọng cho đến những năm đầu thế kỷ XXI. Trách nhiệm ấy, trước hết ở từng nhà thơ, nhưng Hội văn học nghệ thuật tỉnh không thể không có biện pháp và kế hoạch, tránh tình trạng lơ là như những năm qua. Công tác nghiên cứu, phê bình thơ phải được khích lệ và đầu tư. Những biến động về thi pháp thơ Việt Nam - như đã nói - còn lâu mới có những thay đổi đột biến, nhưng nhất thiết nội dung của thơ thế kỷ XXI phải khác. Đạt được điều này hay không, phụ thuộc vào lực lượng cầm bút tương lai mà hiện nay họ còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông hay sắp sửa chào đời. Thành tựu thơ Thừa Thiên Huế hai thập kỷ qua chính là cái bệ phóng tốt nhất cho thế hệ trẻ. Tạp chí Sông Hương, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Báo Thừa Thiên Huế, trong đó, các nhà thơ và đặc biệt là những người biên tập thơ đóng vai trò hết sức quan trọng. Với những lý do ấy, ta có quyền hy vọng bước phát triển tốt đẹp hơn của thơ Thừa Thiên Huế trong tương lai.

Chưa bao giờ trong đời sống thơ một vùng đất lại đông vui, sôi nổi, dân chủ như hiện nay. Dù còn những hạn chế, khó khăn, còn nhiều độc giả thờ ơ với thơ; cơ chế thị trường có tác động xấu đến quá trình thưởng thức thơ nhưng với thành quả đạt được, chứng tỏ thơ của vùng đất này chưa bao giờ yên lặng. Sức sống mãnh liệt của nó đang ngày càng lan tỏa, thu hút. Đó là điều đáng mừng. Vì trong số lượng tác phẩm ấy, trong đội ngũ người cầm bút ấy, thơ hay, người giỏi sẽ xuất hiện, những quặng thơ sẽ được khai thác. Nhiều cát ắt sẽ có nhiều vàng. Và từ những tham số hiện lên đó, người đọc khả dĩ chứng minh được bước phát triển mới của thơ Thừa Thiên Huế, nó có khả năng định hướng thẩm mỹ cho giai đoạn thơ tiếp theo. Và dĩ nhiên, từ những tham số ấy, bỏ qua những gì là cá biệt, không bản chất, bỏ qua những giá trị giả, giữ lại những kết quả có tính loài, chúng ta có quyền hy vọng sự vận động và phát triển mới của một vùng thơ trong tương lai, đặc biệt, là những năm khởi động ở đường biên văn học đầu thế kỷ XXI.

H.T.H
(172/06-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.