Thơ

09:21 15/11/2019

ALAN BURNS      

William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.

Trong những bài thơ khác, đáng chú ý là “The Wind Increases” (1934) và “A Sort of a Song” (1944), Williams bình luận về loại thơ ông muốn làm. “The Wind Increases” là một hình thức thơ trên trang giấy (spatial poem); nói một cách khác, bài thơ dùng cách sắp đặt chữ trên trang giấy như một cách diễn tả. Bài thơ nói về gió, và những chỗ thụt đầu dòng không bình thường khiến cho các chữ có vẻ như “gió cuốn đi”. Bài thơ còn nói về bản chất của nhà thơ (“nếu có bất cứ bản chất nào”). Bám vào sự tương tự hữu cơ được chuộng bởi các nhà lãng mạn, Williams so sánh chữ của nhà thơ với cây cối bị gió thổi. Thơ phải được neo lại, nhưng nó cũng phải ghi vào sổ “hình thức/ của chuyển động”, cách mà một cây đang chịu gió thổi ra sao. Thứ hình dạng như thế rõ ràng vừa phức tạp vừa tương đối tự do, nhưng nó sẽ không dễ tàn nếu gió không thể thổi nó đi mất. Thơ thực sự, nói một cách khác, vừa ngẫu nhiên vừa lâu dài: nó giảng hòa những mâu thuẫn này. Ý của Williams, dù là mới lạ trong dạng thức, cũng trở lại “Nghệ thuật” (đã bàn luận dưới “Art & Beauty”) của Emerson và Melville; về mặt tinh thần bài thơ cũng có vẻ rất gần với trích dẫn chơi chữ bởi Thoreau đã dùng làm đề từ cho đoạn này. Trong “A Sort of a Song”, Williams đưa ra lối đặt trong ngoặc “No idea/ but in things” đã tái công thức lại đề mục chính trong “Ars Poetica” của MacLeish. Williams thúc đẩy nhà thơ làm thơ và phát minh, và cũng xem tự chính thơ vừa là một con rắn sẵn sàng cắn vừa là một đóa hoa chẻ đá (để nở). Như trong “The Wind Increases”, ông đặt chỗ nhấn vào tính nguyên thủy sửng sốt và tính ngoan cố không ngờ của chữ của nhà thơ thật, cũng như nhấn mạnh vào mối kết nối giữa thi ca và thiên nhiên.

J.V. Cunningham trình bày rõ ràng một phản- bác chua chát chống lại dòng chính thơ Mỹ với “For My Contemporaries” (1942). Đặc trưng thì Cunningham bất đồng quan điểm với việc bám vào một khái niệm hữu cơ thơ tự-do của số đông. Thay vào đấy, ông tự đồng tình với phát biểu (đang) nổi tiếng của Robert Frost, rằng làm thơ tự do giống như đánh tennis không có lưới ngăn giữa. Cunningham loại bỏ truyền thống lãng mạn tự biểu hiện và thế vào đấy là các nhà thơ Latin và Phục Hưng nghiêm khắc hơn như kiểu mẫu, chuộng nói đến tác phẩm của mình là “thơ vần” (verse), để phân biệt nghịch lại “thơ” (tự do). Thơ vần, mà ông nhắc đến là những sáng tác vận luật và vần nhịp chặt chẽ, ông cho rằng, thuộc về công chúng với những căn bản khách quan ưu tú, trong khi thơ, ý ông muốn nói là thơ tự do, đã biến thành riêng tư hay thuộc nhóm văn học, với những phẩm chất căn bản chủ quan và phần lớn là độc đoán, gần-như-tôn-giáo. Không nghi ngờ gì nữa, nhiều nhà thơ và nhà phê bình Mỹ, bắt đầu với Emerson và Whitman, đã cố sức tìm trong thơ tự do vài ý nghĩa tư tưởng cũng như phẩm chất “Mỹ” riêng biệt không rõ nghĩa, trong khi đó, lại quên mất rằng các nhà thơ người Anh như Christopher Smart, William Blake, và Martin Farquhar Tupper đã dùng nó trước cả Whitman, rằng Vers libre của Pháp đã gây hứng cho phong trào hiện đại, và rất nhiều nhà thơ Mỹ hay nhất và đặc sắc nhất - từ Bryant và Longfellow cho đến Melville và Dickinson cho đến Robinson và Frost - từng làm thơ theo vận luật.

“For My Contemporaries” kể ra cách Cunningham, với lương tâm, từ bỏ “thơ” để theo “vận luật”. Những câu ngắn trong bài thơ tương phản với câu dài, sưng phồng lên, như Cunningham đã nói, với “tiếng động tinh thần” - mà ngay lập tức, kết hợp với Whitman và các nhà thơ hiện đại hậu duệ. Bài thơ nhấn mạnh vào khó khăn và tính nguyên thủy của sự khéo léo tài giỏi và chiều theo những người có ý đánh giá thấp hoặc ngay cả bất chấp đạo lý truyền thống của vận luật. Đoạn thơ cuối nhức nhối sắp đặt cảm giác và khéo léo với vận luật, dường như cũng sắp đặt thơ (tự do) với điên khùng. (Những tình cảm tương tự có thể tìm thấy trong vài bài thơ ngắn về nghèo khổ viết bởi đồng nghiệp thông cảm quen biết với Cunningham, Yvor Winters, gồm có “To a Young Writer”, “On Teaching the Young”, và “Time and the Garden”). Văn phong gay gắt biểu thị của Cunningham mở đầu hình ảnh tự nhiên và dạng thức hữu cơ bị chỉ trích hoàn toàn. “For My Contemporaries” hơi khó chịu nhưng là một phát biểu cá nhân không chối cãi về việc kháng cự lại những phương thức có ưu thế của thơ Mỹ. Nó trêu chọc một cách nào đó rằng tất cả mọi phát biểu thông minh rõ ràng không đồng quan điểm, và không có gì đáng nghi ngờ, đã được dùng đề tạo hứng cho phong trào “tân hình thức” qua vài thập niên qua, liên kết với tác phẩm của những nhà thơ-kiêm-phê-bình xuất sắc như Timothy Steele và Dana Gioia.

Mặt khác, “American Poetry” (1963) của Louis Simpson, tương tự như “Poetry” của Moore trong cách nó kêu gọi những bài thơ tạp nhạp có thể “tiêu hóa” bất cứ gì hiện hữu trên thế giới, kể cả “uranium”. Simpson, giống Moore và không giống Cunningham, đứng ở dòng chính tư tưởng Mỹ về thơ, nối dài từ thời Emerson và Whitman. Không có lý thuyết gia chủ yếu nào về thơ Mỹ lại muốn giới hạn chủ đề của thơ đối với đề tài “thi ca” bình thường. Tất cả mọi thứ trên thế giới, như Emerson ám chỉ trong bài tiểu luận “The Poet”, phải được xem là nguyên liệu thích hợp cho tưởng tượng thơ sử dụng. Simpson thể hiện cụ thể thơ Mỹ qua hình ảnh một con cá mập, khi bị mổ bụng có thể tìm thấy đủ thứ kinh ngạc (Simpson đưa ra thí dụ chiếc giày, tượng trưng cho bất cứ điều gì “không thơ lắm” mà ta có thể tìm thấy trong một bài thơ Mỹ xác thực). Ông phát triển hình ảnh này xa hơn nữa gồm trong hai câu: con “cá mập” phải bơi không biết mệt qua “sa mạc” của văn hóa Mỹ, và nó phải, trong những điều kiện vô nhân đạo như thế, xoay sở để tìm hay giữ được tiếng nói “hầu như người”. Nối kết với thiên nhiên trong bài thơ ở mức độ tinh tế nhất - “những mặt trăng” và “sa mạc” không hẳn gợi lên được một đồng quê lý tưởng - nhưng đây cũng là một phần của quan điểm. Những vệt cắt vô cùng lớn của Mỹ châu hiện đại lồ lộ thiếu vắng bất cứ di tích nào của thiên nhiên, nhưng thơ, vẫn thích nghi và hỗn tạp như Emerson đã tiên đoán, phải xông tới và tìm những nguồn hứng mới; nó phải, một cách đối nghịch, làm thơ không có nét thơ. Không có bài thơ nào nói đến bây giờ đã nắm được câu hỏi căn bản và khó nhất trên tất cả: Thơ là gì? “Because You Asked about the Line between Poetry and Prose” (1980) của Howard Nemerov bắt đầu làm việc đó, cho dù hơi gián tiếp một chút. Trong bài thơ súc tích hình tượng này, Nemerov chỉ ra một cách duyên dáng những bóng màu xám tách biệt thơ với văn xuôi. Ông làm như thế với minh họa ẩn dụ: khoảng khắc hạt mưa lạnh cóng biến thành tuyết. Khoảnh khắc đích xác của sự thay đổi này thì tránh né cái nhìn chăm chú nhưng chính sự thay đổi thì không thể hoài nghi được. Nói một cách khác, Nemerov từ chối phân biệt hẳn hòi giữa thơ và văn xuôi. Phân ranh mập mờ nhưng khác biệt - thứ mà A.R. Ammons trong “Corsons Inlet” gọi là “đường cắt căng ra” (sharpeness spread out). Nemerov chứng tỏ, qua thí dụ sáng lòa của mình, rằng đường ranh chính xác giữa các thứ liên quan với nhau rất khó để vẽ chính xác. Khi nào thì “trung niên” chấm dứt và “cao niên” bắt đầu? Chúng ta có thể khó nói ra mặc dù vẫn tin rằng mình có thể nhận biết trung niên hay người già khi gặp mặt. Trong vài trường hợp nào đó một thí dụ cụ thể, có thể nhiều tranh luận trừu tượng đáng giá. Phần lớn thơ được dự đoán theo khái niệm này, và ở đây, Nemerov chưa viết về thơ mà chỉ mới đưa ra một thí dụ hay, thơ là gì. Dana Gioia thăm dò một khía cạnh khác của thơ trong “The Next Poem” (1991), một trình bày nổi bật về hy vọng mà tất cả mọi nhà thơ thực hành sẽ đồng tình. Gioia diễn tả ý tưởng Platonic của một bài thơ mà trong đó ông (và nhiều nhà thơ thể luật) khao khát mỗi lần đặt viết lên giấy (hoặc là, gõ gõ mấy cái lên phím). Bài thơ mà ông nghĩ đến sẽ có câu mở đầu khó quên, sẽ làm ra cách sử dụng thể thơ một cách chuyên môn và hữu cơ, sẽ dùng vần tinh vi, phối hợp các ngôn ngữ thông thường với âm nhạc sinh động, kinh ngạc, tránh phần mảnh và khó hiểu, và và với sự ẩn tàng chắc chắn đầy ý nghĩa. “Giờ thì có vẻ tốt hơn trước,” ông than vãn, khi nó thật sự được làm xong. Gioia kềm giữ giấc mơ hoàn hảo bằng những thỏa hiệp cứng ngắc và bất mãn của sự trình diễn hiện thời. Nhiều nhà thơ cố làm “bài thơ hoàn hảo”, trong khi biết rằng điều đó rất khó. Tuy vậy, Gioia ám chỉ, chính tự giấc mơ, là thứ tạo ra hứng cho vài bài thơ hay, vì nếu không có một hoàn hảo lý tưởng sẽ không có căng thẳng theo đuổi cái tuyệt hay. Bài thơ, minh họa qua nhiều quan tâm, những tư cách đáng ganh tị mà nó kể ra từng chi tiết, kết thúc bằng một suy diễn sâu sắc: nhà thơ như người câu cá, chờ đợi con cá kế tiếp cắn câu và hy vọng sau rốt, đó sẽ là “con cá lớn”.

Điểm Thọ dịch  
(SHSDB34/09-2019)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THUẬN AN

    (Đọc cuốn ký sự đường xa “18 tuổi và chuyến phượt solo đầu đời trên đất Mỹ” của Phạm Nguyễn Linh Đan, Nxb. Hội Nhà văn 2018).

  • (Để tưởng niệm thi sĩ Mary Oliver, vừa mất ngày 17 tháng 1, 2019, tại Florida, 83 tuổi)  

    ĐỨC TÙNG

  • CHU HUY SƠN

    Khó có thể kể hết những nhà thơ Việt Nam và thế giới bắt gặp cảm hứng từ cuộc đời cao đẹp và vô cùng trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để sáng tác nên những tác phẩm về Người. Song, tôi cho rằng, bài thơ “Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ” của nhà thơ Cuba là một trong những sáng tác hay nhất viết về Bác.

  • Sinh năm 1947 tại Rio de Janeiro, Brazil, 40 tuổi mới viết và xuất bản cuốn sách đầu tiên, Paulo Coelho được xem là nhà văn (còn sống) được đọc nhiều nhất thế giới: tuy số lượng tác phẩm đến nay chỉ trên 20 cuốn, nhưng đã phát hành đến 86 triệu bản tại 150 quốc gia, trong đó có nhiều cuốn luôn ở trong danh sách best- seller (số liệu tính đến tháng 6/ 2015). Ngày 22/12/2016, trong danh sách 200 tác giả có ảnh hưởng lớn nhất thế giới do công ty Richtopia đề xướng, Paulo Coelho được kể tên ở vị trí thứ 2.

  • WILLIAM D. ADAMS    

    LGT: William D. Adams hiện là học giả cao cấp tại quỹ hỗ trợ nhân văn và khoa học nghệ thuật lừng danh Andrew W. Mellon của Hoa Kỳ. Từ 2014 - 2017, ông được Tổng thống Obama (lúc đương nhiệm) bổ nhiệm giữ chức vụ chủ tịch Tổ chức Quốc gia về Nhân văn (NEH) - cơ quan độc lập của chính phủ tài trợ các dự án văn hóa, nghệ thuật, và giáo dục.

  • PABLO NERUDA    

    LGT: Pablo Neruda, nhà thơ Mỹ Latinh nổi tiếng thế giới, sinh năm 1904 tại Parral, Chile. Năm 1920 ông đến Santiago để học tập và công bố bài thơ đầu tiên “La canción de la fiesta” (1921), rồi được biết đến rộng rãi qua tập thơ “Crepusculario” (1923).

  • PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO  

    Tôi xin được dùng tên một bài thơ viết tại Paris của mình làm tựa đề cho bài viết này. Đó là những cảm xúc thăng hoa, những phút giây hạnh phúc và cũng là những kỷ niệm khó quên cùng bạn thơ của 24 quốc gia tham dự cuộc thi Slam thơ Quốc tế 2018 tại Paris tháng 5/2018 vừa qua.

  • PHẠM HỮU THU  

    Nhân loại kính nể không chỉ vì đất nước Nhật Bản bình tĩnh ứng phó thiên tai mà còn gây thiện cảm qua hành vi ứng xử của họ. 

  • NGUYỄN THANH VIỆT  

    Nguyễn Thanh Việt là nhà văn gốc Việt đoạt giải văn chương Pulitzer, tác giả của “The Sympathizer,” “The Refugees,” và “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War.” Ông hiện là giáo sư Anh văn tại Đại học Nam California (Mỹ).

  • (T. Segers đặt câu hỏi, Hans Robert Jauss trả lời, Timothy Bahti dịch [sang tiếng Anh], Tạp chí New Literary History, Vol. 11, No. 1, Johns Hopkins University Press, 1979).

  • HENRY SLESAR

    Nhà văn nổi tiếng Henry Slesar (1927 - 2002) viết tiểu thuyết, kịch bản, trinh thám, khoa học viễn tưởng đặc sắc về thủ pháp hài hước, kết cục trái chiều. 

  • PHẠM ĐĂNG  

    Thế giới vừa vĩnh biệt một thiên tài: Stephen William Hawking.
    Ngày sinh của Hawking (8 tháng 1 năm 1942) đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo Galilei (8 tháng 1 năm 1642). Ông qua đời (14/3/2018) vào ngày số Pi, cũng là ngày sinh của Albert Einstein (14 tháng 3 năm 1879).

  • Robert Arthur, Jr. sinh năm 1909, tại Philippines, nơi cha của ông, sĩ quan quân lực Hoa Kỳ, đóng quân. Tuổi thơ của ông cũng theo chân cha nay đây mai đó, có điều là ông không nối nghiệp cha (dù đã được nhận vào trường West Point), mà chọn học ngành văn chương.

  • HENRY JAMES   

    Henry James: Nhà văn Mỹ (1843 NewYork - 1916 Luân Đôn), viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học, nghệ thuật Pháp. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009). Chủ đề: Ý thức, tâm lý; mơ mộng, tình cảm; vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Trước khi biết lòng tử tế là gì
    Bạn phải mất đi nhiều thứ

  • NGUYỄN DƯ

    Đọc Thơ Đường bất ngờ thấy bài Lương Châu từ của Vương Hàn (687 - 726):
    Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi
    Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
    Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi.

  • PHẠM TRƯỜNG THI  

    Tôi và nhà văn Hà Phạm Phú nhận lời mời của Hội Nhà văn Việt Nam đi dự Hội thảo văn học quốc tế Trung Quốc và các nước lưu vực sông Mê Kông gồm: Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam được tổ chức từ ngày 21 đến 25 tháng 5 năm 2017 tại thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, khu tự trị dân tộc Choang Trung Quốc.

  • W.S. PEIRIS

    W.S.Peiris sinh 1932; đạt giải nhì truyện ngắn tiếng Anh trong cuộc thi Văn học quốc gia Tích Lan năm 2008. Hiện ông sống tại Kiribathgoda, Sri Lanka.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Chủ nghĩa hiện đại khởi đi với các đại tự sự và niềm tin vô điều kiện của nó vào Lý tính đồng thời chủ nghĩa hậu hiện đại nổi lên để phản ứng lại sức hướng động tuyến tính như thế của chủ nghĩa hiện đại, khi mà nó luôn muốn cổ xúy cho một sự bất tín về phía các đại tự sự và tiến hành giải kiến tạo chúng.