Thơ - sứ giả hòa bình

09:12 14/04/2009
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

Wayne nói: Chị Mỹ Dạ xem kỹ bản hợp đồng, rồi ký vào để anh ta mang trở về Mỹ trao lại cho cơ quan xuất bản. Mỹ Dạ thấy bản hợp đồng ghi rõ, khi bán xong sách, tác giả sẽ được nhận 40% tiền lời (nhuận bút), nhà xuất bản 40% và người dịch 20%. Ký xong, Wayne đưa cho Mỹ Dạ 500 USD bảo rằng: “Đây là khoản tiền nhà xuất bản gửi cho tác giả lần đầu. Bán xong sách sẽ thanh toán đủ % như hợp đồng đã ký”. Có lẽ đây là lần đầu tiên một nhà thơ Việt Nam in thơ ở nước ngoài được hưởng bản quyền đàng hoàng như vậy.

Wayne S. Karlin, từng là cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam. Buổi gặp gỡ bất ngờ và tự nhiên, Lâm Thị Mỹ Dạ đưa tập thơ song ngữ Việt - Anh “Green Rice” cho các bạn Mỹ xem. Chị lật giở đến hai bài thơ viết về cuộc chiến tranh ở Việt Nam là “Khoảng trời hố bom” “Khuôn mặt ẩn kín” cho hai người đọc. Bài thơ “Khuôn mặt ẩn kín” tác giả đề “Gửi những người lính Mỹ chết trong cuộc chiến ở Việt Nam”. Những câu thơ chân thành và đau đớn, là tâm trạng chung của bất cứ người lính Mỹ nào trong các cuộc chiến tranh trên thế giới:

Rồi có lúc cuối đường tôi gục ngã
Viên đạn ai găm khuôn ngực máu đầy
Xin hãy giở dưới lần da chó sói
Trái tim nai thắm đỏ, thơ ngây

Đọc xong hai bài thơ, mắt Wayne S.Karlin và Valerie rưng rưng, rồi những giọt nước mắt lăn xuống thành dòng, không ngăn được. Còn Mỹ Dạ sau giây phút ngạc nhiên, cũng đỏ hoe mắt, khóc theo. Cuộc gặp gỡ tình cờ mà thật cảm động. Vâng, khi thơ là sự đồng cảm của nhân loại, thì tâm hồn con người sẽ vượt qua bức tường mặc cảm lịch sử để đến bên nhau, chia cho nhau từng giọt nước mắt, không phân biệt dân tộc, quốc gia, màu da, tiếng nói. Trong trường hợp này, thơ Mỹ Dạ đang là sứ giả hòa bình!

Cũng mùa hè vừa qua, tại bang Boston, Mỹ. Trung tâm William Joiner đã tổ chức cuộc hội thảo về tập thơ Cốm non trong trại viết văn mùa hè ở Boston. Mấy chục nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Mỹ đã có mặt trong cuộc hội thảo này. Tại cuộc hội thảo, nữ nhà thơ Martha Collins và Thúy Đình (nhà thơ Mỹ, gốc Việt), đồng dịch giả tập Cốm Non của Lâm Thị Mỹ Dạ ra tiếng Anh, đã thay nhau đọc thơ Mỹ Dạ cho cử tọa nghe. Sau khi nghe đọc tập thơ Green Rice, nhà thơ Fred Marchant, tác giả của 3 tập thơ, người đã từng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa ra tiếng Anh, giáo sư Anh ngữ, giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk, người thẩm định tác phẩm bậc thầy Trung tâm William Joiner tại Umass Boston, đã đọc một bài phát biểu rất súc tích, đánh giá cao thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: “Cốm non không chỉ giới thiệu cho người đọc Mỹ về kinh nghiệm chiến đấu của phụ nữ Việt Nam trên 30 năm, qua cách nhìn của một nhà thơ mà còn nói về hậu quả lâu dài của chiến tranh... Có những bài thơ không dễ gì yên lòng với một khoảng lặng hay tự náu mình như chị mong muốn. Có những bài thơ in dấu sự tưởng tượng phong phú, mối quan hệ huyền ảo với cảnh sắc Việt Nam... Chạy xuyên suốt qua nguồn mạch u buồn, dường như nhiều thứ còn ở lại mãi trong tâm hồn nhà thơ này”.

Bài thơ Cốm non, bài thơ lấy tàm đề tựa cho tập thơ, có những câu thật hay: “Cốm non xanh đến trào nước mắt / Thơ ngây ơi, phút chốc đã không còn”. Fred Marchant nhận xét: “Đấy chính là cái khoảnh khắc sự vật biến mất mà trí tượng tượng của chị bắt được... Thơ của chị là bản chúc thư của người đàn bà về những hiểm nguy mà họ đối mặt. Đó là cốt lõi của ẩn dụ của Dạ đối với nỗi buồn không tên”. Đó là những cảm nhận tinh tế và chính xác về thơ Mỹ Dạ. Riêng người dịch Cốm Non, nữ nhà thơ Martha Collins thì cho rằng: “Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ không khác các nhà thơ nữ Hoa Kỳ đương đại, nhưng có lẽ trên một nền tảng văn hóa lâu đời hơn. Đó là sự khảo sát giới hạn của vai trò người phữ nữ truyền thống, sức mạnh và sự cô đơn”

Không khí hội thảo càng lúc càng sôi nổi. Mấy chục nhà thơ Mỹ đã phát biểu cảm nghĩ của mình về thơ Mỹ Dạ. Họ thổ lộ sự say mê thơ Mỹ Dạ của mình bằng những dòng cảm nghĩ rất chân thành. Kevin Bowen, một nhà thơ cựu chiến binh Mỹ rất quen biết với độc giả Việt Nam viết: “Trong thơ ca của chị phản ánh cái giá phải trả của chiến tranh”. Còn nhà thơ Marilyn Chin thì nhận xét: “Đứng sau cái hình thức dường như đơn giản, là những tinh tế căng thẳng, giữa sự ẩn nhẫn của đạo Phật và mối lo lắng của thời đại, giữa nỗi buồn lặng lẽ và niềm vui không che dấu... Những bài thơ hay nhất trong tuyển tập mang âm hưởng tươi tắn khác thường đầy sắc thái và lớn lao đáng kinh ngạc”.

Còn hàng chục nhà thơ khác thì thốt lên: “Hay, thực sự là hay” (Melnzad Avalin), “Hay tuyệt. Cám ơn” (Denetria Martinez); “Toàn những bài thơ hay” (David Johnson), “Tôi yêu những bài thơ của chị” (Siuh Eisenberg); “Tôi nghe tiếng nói của chị và bị cuốn hút theo chữ nghĩa của chị” (Moky Heym Watt); “Những lời hay ho của chị làm trái tim tôi sung sướng” (Fernandes). Đặc biệt trong hội thảo có mặt 2 nhà thơ nổi tiếng của Mỹ hiện nay là Bruce (Weyl) và John Balaban. John Balaban, người đã dịch thơ Hồ Xuân Hương, xuất bản ở Hoa Kỳ, phát biểu: “Bên ngoài vẻ thú vị của thơ ca Mỹ Dạ – có lẽ đó thực sự là chuẩn mực của văn chương người Việt...” v.v.. Theo tường thuật của Linh Tô Green (tức Tô Diệu Linh, con gái nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Việt Kiều tại Boston) thì: “Mọi người rất cảm động và rất thích những bài thơ tuyệt vời của cô Dạ và những bản dịch thật hay”.

Người yêu thơ ở Mỹ không chỉ say mê tập thơ “Cốm non”, mà từ mấy năm nay, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng đã được dịch đăng ở các tuyển thơ thế kỷ, các tạp chí của nhiều trường đại học ở Mỹ. Một ngày thu mới đây, Lâm Thị Mỹ Dạ nhận được một gói quà nặng do nhà thơ Martha Collins (người dịch Cốm Non), gửi từ Boston sang. Đó là một chồng 6 cuốn sách và tạp chí dày cộp của các trường Đại học ở Mỹ xuất bản, trong đó có dịch thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Đó là tạp chí của Trường Đại học Michigan tên là Michigan Quarterly Review các số chuyên bàn về “Việt Nam trong bối cảnh thế giới”, trong số I (10/2004) và số 2 (Mùa đông 2005) đã liên tục in 2 bài thơ Khuôn mặt ẩn kín Với Sông Hương của Lâm Thị Mỹ Dạ.

Tạp chí Connecticut của Đại học bang Connecticut, xuất bản năm 2004, dày 208 trang, với sự góp mặt của 36 nhà thơ trên thế giới. Trong tạp chí này Lâm Thị Mỹ Dạ là một trong những tác giả được giới thiệu nhiều thơ nhất, với 8 bài: Thiên Thạch, Những điều liên quan, Phố thơ lục bát, Khoảng trời xanh biếc, Mẹ ngày xưa, Một thời con gái, Trái tim sinh nở, Những tứ thơ lãng quên.Tạp chí thơ Heliotrope số 7 in bài thơ Mưa Sài Gòn của Mỹ Dạ. Tạp chí Thơ thế kỷ XXI do The Foued C.Fox Foundation, In xuất bản, giới thiệu 77 tác giả thơ trên thế giới. Trong đó Việt Nam có mặt 4 người là Phạm Tiến Duật, Lâm Thị Mỹ Dạ, Dư Thị Hoàn, Phạm Lê. Đặc biệt tuyển thơ “Vòng tròn” (Circumference) do Quỹ hỗ trợ nghệ thuật của thành phố New Yook xuất bản thu đông 2003, dày tới 271 trang, giới thiệu 54 nhà thơ trên thế giới. Trong đó Việt Nam chỉ có Lâm Thị Mỹ Dạ được giới thiệu với bài thơ “Cây Na”. Điều đặc biệt là Tuyển thơ Vòng tròn này in song ngữ. Tác giả người nước nào thì in thơ bằng ngôn ngữ của chính nước đó và bản dịch tiếng Anh. In thơ song ngữ kiểu này thật sang trọng, lần đầu tiên tôi được thấy!

Bởi vậy, khi đọc tập thơ “Cốm non” bản tiếng Anh và lật từng cuốn tuyển thơ thế kỷ, tạp chí các trường đại học ở Mỹ in thơ của vợ mình, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cười đùa vui: “Đúng là bụt nhà không thiêng. Mình ở cạnh một người nổi tiếng mà lâu nay không biết!”.

M.K
(200/10-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HUỲNH NHƯ PHƯƠNG    

    Một ngày giáp Tết Canh Tý, Từ Hoài Tấn* mời bạn bè đến quán cà phê nhìn sang Vương Cung Thánh Đường dự ra mắt tập thơ tuyển của ông (Thơ Từ Hoài Tấn, Nxb. Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2020).

  • NGỌC BÍCH
        (Đọc "Thơ Ngô Kha"*)

    Bây giờ là năm 1992. Anh hy sinh đã gần 20 năm. Tập thơ của anh đã xuất bản được một năm nhờ những bạn bè thân quen và những người yêu mến thơ anh. Tôi là người đến muộn. Nhưng như người ta vẫn nói "dẫu muộn còn hơn không". Nhất là ở đây lại đến với MỘT CON NGƯỜI.

  • PHẠM XUÂN DŨNG  

    (Nhân đọc tập tản văn Ngoại ô thương nhớ của Phi Tân, Nxb. Trẻ, 2020) 

  • HỒ THẾ HÀ     

    Lê Văn Ngăn, sinh ngày 15 tháng 01 năm 1944, tại Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Học, trưởng thành và tham gia phong trào học sinh, sinh viên yêu nước ở Huế (1965 - 1975). Là phóng viên Đài Phát thanh Huế (1975 - 1978).

  • PHẠM TRƯỜNG THI  

    Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.

  • HỒ HUY SƠN  

    Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.

  • LÝ HOÀI THU    

    Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi. 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

    Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    • Để chọn được những áng thơ hay, những người thơ có tài, người ta thường mở các cuộc thi, và cuối cùng là giải thưởng được trao.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.

  • TRẦN THÙY MAI  

    Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!

  • NGUYỄN QUANG THIỀU  

    Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.

  • VŨ VĂN     

    Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.

  • ĐỖ QUYÊN  

    1.
    Du Tử Lê
    thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)

  • LƯU KHÁNH THƠ   

    Giai đoạn giao thời ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự thay đổi vị trí xã hội của người phụ nữ. Từ “chốn phòng the”, một số người phụ nữ có tri thức và tư tưởng tiến bộ đã mạnh dạn vươn ra ngoài xã hội, bộc lộ suy nghĩ, chủ kiến riêng và thể hiện con người cá nhân của mình.