Tiến sĩ Bửu Nam - Ảnh: dhsphue.edu.vn
Vẻ đẹp và sự quyến rũ, mê hoặc của thơ Đường, thơ Haiku (Nhật Bản) một phần lớn là nhờ nó. Nó không chỉ là đề tài, cảm hứng mà còn thể hiện một cách sống, một cách cảm nhận, một cách diễn tả tâm trạng, tình ý, và cao hơn nữa nó phản ánh một triết lý sống và triết lý nghệ thuật của các thi sĩ lớn phương Đông. Đối với các thi sĩ Việt Nam triều Nguyễn như Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh... thiên nhiên có một vị trí và giá trị đặc biệt, và mỗi người có một sắc thái riêng, một cách cảm nhận riêng, một phong cách riêng, phản ánh tâm hồn Việt Nam một cách tinh tế và mang dấu ấn chung của tâm hồn phương Đông. Nhưng chính trong thơ của thi sĩ Vương công triều Nguyễn- Miên Thẩm do cuộc đời, hoàn cảnh và lối sống, do những thăng trầm lịch sử và các biến cố thời đại in dấu trong ngóc ngách tế vi của tâm trạng của ông, và hơn thế nữa vùng đất ông sống là nơi phong cảnh hữu tình, diễm lệ, thiên nhiên chiếm một vị trí hết sức độc đáo và có thể nói nó đã được kết tinh thành tư duy và ý thức nghệ thuật của nhà thơ này. Mặt khác, thành tựu chính của thơ ông Hoàng xứ Huế này là thơ viết bằng chữ Hán. Do việc sử dụng ngôn ngữ viết này vả lại đây là nhà thơ có sở học uyên bác về cổ thi Trung Quốc, nên cấu trúc thơ của thi sĩ này chịu sự chi phối mạnh mẽ của thiết chế cổ thi, cổ phong, thơ Đường, Tổng về thể loại (ngũ ngôn, thất ngôn, hành...) cả về luật Thi, về quan niệm con người vũ trụ và cảm hứng vũ trụ, về từ ngữ, nhịp điệu, hệ thống hình ảnh và ngay cả tứ thơ, thậm chí cả kết cấu, âm hưởng. Nhưng chính trên nền tảng tiếp thu các sở đắc và thành tựu thi pháp của di sản thơ cổ điển Trung Quốc lớn này, ông đã cố sáng tạo ra một sắc thái riêng, một âm hưởng riêng đậm đà tính dân tộc, sắc thái của vùng đất Huế và tâm tình riêng. Chính cái “độ lệch” này trong phong cách thơ của ông, trên cái nền của phong cách cổ thi là điều hết sức quan trọng và đáng lưu tâm. Chính nhờ điều đó, thơ của ông, tạo thành một niềm tự hào cho vương triều Nguyễn và ở một thời điểm nào đó của con người và vùng đất Huế mà trong một câu thơ đã tôn xưng: “Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường”.
Trước hết là thiên nhiên - bút họa, vẽ và tả sự nên thơ của phong cảnh quê hương Thừa Thiên Huế và các danh lam thắng cảnh Việt Nam. Loại thiên nhiên này có phong vị của tranh thủy mặc. Tuy nhiên, qua lăng kính chủ quan của từng tâm trạng, cảm xúc và ý đồ riêng của nhà thơ nên mỗi bài dù chừng ấy hình ảnh được sử dụng lại, vẫn mang sắc thái riêng. Ở đây có mối biện chứng giữa cái đẹp của khách thể và tính thẩm mỹ của cảm xúc nhà thơ, nên thiên nhiên được tái tạo mang tính chất nghệ thuật, thiên nhiên dưới mỗi khoảnh khắc, trong một không gian riêng và dưới cái nhìn của tâm hồn thơ. Có thể nói thiên nhiên thứ hai này trong thơ của Miên Thẩm được cách điệu hóa, được chọn lọc và chỉ gợi tả qua một vài nét chấm phá, nhưng nó vẽ nên được vẻ đẹp của thiên nhiên khách thể, và đồng thời là một “thiên nhiên mới” hữu tình hơn. Loại thơ thiên nhiên này cho ta thấy tình yêu xứ Huế và đất nước kết tinh sâu thẳm trong lòng nhà thơ. Tiếp đó, là loại thiên nhiên - ngụ tình, hai nhà thơ xem thiên nhiên như là một phương thế để diễn tả tâm tình, đặc biệt là tình yêu, tình bạn, tình gia đình và cảm xúc trước lịch sử, hoặc mượn thiên nhiên để biểu hiện một ý tưởng, một quan niệm về cuộc đời. Thiên nhiên này có khi được nhân hóa, có khi là một ẩn dụ, hoặc có khi chỉ là một khung cảnh để gợi tình, hoặc đôi lúc chỉ là một tỉ dụ so sánh. Sau hết, thiên nhiên được nâng lên thành một triết lý sống, triết lý nghệ thuật như là một thứ đạo nhàn, biểu hiện khí tiết thanh cao của người quân tử, vừa là lối chiêm nghiệm lẽ đời và thời gian giữa cõi vừa vô thường, mà lại vừa vĩnh hằng trước sự biến động trước lịch sử và sự ô trọc của đời thường. Tâm hồn của nhà thơ như hoà đồng vào vũ trụ để quên đi nỗi sầu thế và như là thái độ ẩn dật trước cuộc đời. Ba loại thiên nhiên này tạo thành một cấu trúc đặc biệt trong toàn bộ thơ của Tùng Thiện, chúng có tác động tương tác lẫn nhau, sắc độ mỗi loại đậm nhạt tùy theo bài mà có những ý nghĩa và chức năng riêng. Thiên nhiên và ý thức nghệ thuật trong thơ Miên Thẩm. Chìa khóa để mở ra quan niệm nghệ thuật về thiên nhiên cả Miên Thẩm, theo thiển ý, có thể tìm thấy trong bốn câu thơ tuyệt bút của thi sĩ Thương Sơn, viết trước khi lâm chung “Bán niên học đạo thái hồ đồ, thoát tỉ như kim nãi thức đồ, tiên sảng đình ba Thiên Mụ nguyệt, thủy hương lâm ảnh hữu nhân vô” (Nửa đời học đạo vẫn phân vân, thoát dép như nay mới thỏa lòng, Thúy Vân, Thiên Mụ trăng và sóng, Bóng rừng hương nước nhớ ta chăng?). Ở đây là sự chiêm ngưỡng cả một đời trước cái chết, trong đó thiên nhiên được đề cao như một giá trị tâm cảm tuyệt đối, một sự luyến nhớ hơn cả người thân. Vả lại, ở thời điểm cái chết sắp đến, đây là lúc đối lập giữa cái hữu thường của con người và sự vĩnh hằng của thiên nhiên, ở đó có tiếng kêu tuyệt vọng gợi hỏi cái vĩnh hằng có nhớ cái hữu hài vô thường này không. Một mặt khác ở đây còn có sự đối lập giữa nhận thức của con người với cái mênh mông khác là “lẽ đạo”, nhưng nếu việc lý hội “đạo” vẫn còn chưa tri nhận được trong một đời người, vẫn còn ở trạng thái phân vân, mông lung, thì trái lại, thiên nhiên xuất hiện như tương cảm sâu xa được nhân hóa như một hữu thể có thể cảm thông với con người. Các môtíp về thắng cảnh thiên nhiên Huế: Thiên Mụ, Thúy Vân, Sông Hương (hương nước) và nới rộng ra các môtíp “núi, chùa, trăng, sóng, sông, nước, rừng” sẽ trở đi trở lại trong thơ của Tùng Thiện với các sắc thái khác nhau mà bài “Lục Thủy” (Nước biếc) gần như biểu hiện đầy đủ: “Lục thủy, thanh sơn thường tại, cô vân, dĩ hạc đồng phi, doãn đình hữu biên khách điếu, tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy” (Nước biếc, non xanh còn mãi, mây trời hạc nội cùng bay, thuyền câu, khách ngồi, bến liễu, cầu nhỏ, sư về, trăng lay). Ở bài thơ này, thiên nhiên, non nước là vĩnh hằng và con người chìm đắm trong đó, như là một nét chấm phá hòa đồng giữa nó, và là một bức họa đẹp được vẽ với bốm gam màu chính: xanh biếc (núi), xanh lục (nước, liễu), vàng (trăng), trắng (mây, hạc) với không gian ba chiều: cao (mây, hạc, trăng), phẳng (cầu, khách, sư, liễu), và sâu (nước), vừa tĩnh (núi, cầu, khách, liễu, trăng, núi), vừa động (hạc, mây, sư). Mặc dầu ở đây người ta có thể thấy sự láy lại một vài hình ảnh của thơ Vương Bột nhưng bài thơ vẫn thể hiện nghệ thuật sáng tạo của nhà thơ về thiên nhiên. Có thể nói tâm hồn nhà thơ đã chộp được cái khoảnh khắc đáng ghi nhớ thần diệu quý báu của cảnh vật. Cảnh vật, thời tiết, hoa trái, cây cỏ, chim muông xứ Thừa Thiên, và Việt Nam in dấu rõ nét trong mảng thơ thiên nhiên của Miên Thẩm. Ở đây, ta có thể thấy hình ảnh trung tâm là sông Hương với hàng chục bài đi thuyền trên sông. Chẳng hạn loạt bài “Chu hành”, “Dạ bạc”, “Chu dạ hữu hoài”, “Hàn thực phiếm châu tức sự”, “Giang đầu tuyệt cú”, “Hương giang tức mục phụng giảng nhất nhị cố nhân”... Một loạt các địa danh các làng và đồi dọc sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế như Kim Long (“Kim Luông dạ bạc”, “Đồng hữu nhân du Kim Long”, “Định Môn (“Định Môn quy châu”), Thuận An (“Thuận An quy châu”), (“Hương Cần”), Đồi Long Thọ (“Long Thọ cương”), Hải Cát (“Hải Cát giang thứ vãn vọng”), Thương Sơn (“Giang thưởng vọng Thương Sơn”) và gần gũi với kinh thành là Gia Hội (“Gia Hội đô”...) Và một loạt các môtíp liên quan đến yếu tố sông nước như khe suối (như bài “Nam Khê”), Cầu Ngói (“Ngõa kiều”...), câu cá (“Dạ điếu”)
Mảng thơ thiên nhiên liên quan gần xa đến môtíp sông nước với các biến thái khác nhau tùy mùa, thời khắc của một ngày (đặc biệt là mùa thu, mùa mưa, chiều tà, và nhất là ban đêm...) chiếm vị trí lớn trong thơ về thiên nhiên của Tùng Thiện và ở đây có thể lọc ra một số bài hay, câu hay. Đối lập mà cùng hài hòa với sông Hương là núi Ngự Bình (“Ngự Bình đăng sơn cao”) và một thắng cảnh khác: núi Thúy Vân (“Đăng Thúy Vân hữu cảm”). Ở không gian cao này, cho phép nhà thơ nhìn xuống bao quát cả vùng đất hoặc dễ liên tưởng tới những sự kiện lịch sử. Mô típ “núi’ còn liên quan đến một số bài khác như “Sơn trung”, “Sơn gia cư tảo khởi”, “Sơn gia cửu nhật”, “Viên lâm tuyệt cú”. Ở đây, nhà thơ nêu cảnh tịch mịch nên thơ với cây cối, gió, tiếng chim, tiếng ca tiều phu, màu mây, sương, trăng... và cũng thể hiện thái độ tiêu dao ẩn dật thanh cao, đối lập cái đua chen ở đô hội và chốn triều đình... Ba cảnh trí đặc sắc của Huế thường lai vãng trong thơ Miên Thẩm và như một dấu ấn trong tâm thức nhà thơ là: vườn (với các bài “Viên cư khẩu hiệu”, “Viên lâm tuyệt cú”, “Viên cư hữu hoài”, “Quá tạ tướng quân lâm viên”). Chùa với tiếng chuông chùa vang vọng trong hàng chục bài, và rải rác hàng chục câu trong các bài khác (“Du Thiên Ấn tự”, “Du Thiên Thọ vãn quy”, “Quá Viên Giác Tự”, “Tây Thiên tự đề bích”, “Sơn trung hiểu bộ quá Tuệ lâm tự”...) Mưa với các bài “Tâm tình”, “Giang thôn nguyệt dạ văn dịch tương vũ nại vũ”... Và đặc biệt mưa Huế trải dài và xuyên suốt qua hàng chục bài thơ (“Không gian tàn vũ chinh yên” Tống khách, “Phố thượng minh mông tỏa yên vũ” Thư nhạn, “Yên vũ phân phi tiếp tố thu” Dạ bạc, “Giang lâu vân hợp, vũ mơ hồ” Giang lâu vũ tọa thị Đặng Phò mã Thiếu Văn, “Vũ thanh xu hát mãnh” Thuật hoài, “Tế vũ lan san”. Hoài Cao Chu Thần)... Mô típ ánh trăng cũng là hiện tượng thường gặp trong một số bài thơ thiên nhiên với các sắc thái khác nhau từ trăng xuống bên cầu (“Tiểu kiều nguyệt hạ tăng quy” Lục thủy) đến trăng đồng hành với sông thuyền(“Giang vĩnh nguyệt đồng hành”, “Thuận An quy châu”), đến trăng núi thơ mộng điểm trang (“Minh nguyệt điền sơn khuyết” Sơn trung, “Vạn tùng phong biếc, thiên sơn nguyệt” Long thọ cương, “Nguyệt lạc sơn thành yên lộ thâm” Ức bùi lục) trăng với cây cối ao thu (“Thu chiếu vô liên toàn thụ nguyệt - Phế viên). Hoặc ánh trăng cứ láy đi láy lại trong bài “Long Thành trúc chi từ”, từ trăng trên trời “Nguyệt minh nhất phiến tự hà niên”, đến trăng rọi khoang thuyền “Đông tân độ nguyệt khẩu minh chu”, trăng sáng trên lầu không “Dạ dạ minh nguyệt không thướng lâu”, trăng với trời nước “Bích không như thủy nguyệt bồi hồi”, đến trăng trên bóng cây già “Cổ mộc hữu chi thê dạ nguyệt”...) Nghiên cứu các môtíp “tiếng chuông chùa”, “mưa”, “trăng”, “sông nước”, “khói”, “thuyền”, “mùa thu”, “núi”... vạch ra ý nghĩa chức năng nghệ thuật của chúng trong cấu trúc mỗi bài thơ, tìm hiểu mối liên hệ của chúng với các cảnh trí thiên nhiên khác và tâm trạng tiềm ẩn của nhà thơ sẽ là điều hữu ích. Sự diễn tiến các mô típ này trong thơ của Miên Thẩm sẽ cho thấy những ám ảnh vô thức của nhà thơ. Nếu so sánh nó với các mô típ cùng loại trong thơ Đường sẽ là một hướng thú vị, bởi từ đó sẽ nhận thức được “độ lệch” trong phong cách nhà thơ Thương Sơn, nhưng đó là điều đi quá xa so với bài phác thảo này. Cây cỏ, hoa, trái, chim chóc được biểu hiện với những chức năng nghệ thuật khác nhau trong tư duy thơ của Miên Thẩm. Từ hoa nở trong vườn nhờ ngọn xuân lại được kết tinh thành một suy gẫm về lẽ biến dịch nở/ tàn, thành/ bại: “Kim nhật tha suy khai, Minh nhật tha suy lạc” (Hôm nay gió giục hoa nở, Ngày mai gió táp hoa rụng) (“Đông viên hoa”) và do đó nêu lên một quan niệm về tình cảm: chớ mừng khi hoa nở (“Mạc hỉ xuân phong tác”) để khỏi sầu não khi hoa tàn. Bài thơ về “cây Chiên đàn” nêu lên một đặc tính cá biệt về mùi hương của cây: ngược gió hương mới nồng “Phần hương quýnh bất quần... chỉ tại nghịch phong văn” (Chiên đàn thụ”. Qua đó, nhà thơ diễn tả một tư tưởng về người tài: sự ngược đời, sự vượt lên hoàn cảnh (hương nhờ gió mới thơm nhưng ở đây thì ngược lại). Bài “Quất chi từ” vừa dùng màu sắc để vẽ lên đặc tính của trái quýt (Ngũ nguyệt thanh thanh, ngũ nguyệt hoàng), vừa diễn tả một ý tưởng sâu sắc về mùi hương của nó, mùi hương chỉ được kết đọng qua sự chịu đựng gió mưa sương giá (Kỷ trùng phong vũ, kỷ trùng sương), và nhờ tay người tình (cam tâm thích tự tình nhân thủ, yêu thức nồng gia triệt cốt hương). Bài thơ như một ẩn dụ, mượn quít để nói người đẹp, người tài. Bài viết về chim nhạn (Thư nhạn) chỉ nói về nhạn trong một câu thứ tư trong tám câu “Ngao ngao nhẫn cơ luyến trù lữ” (Chim nhạn quên đói khát, quẩn theo đàn), với cái cảnh mùa đông buồn bã, lau lách xác xơ, mưa giăng đầu bãi, mà khói mưa mù mịt, trời lạnh, gạo thóc không, để kết đọng lại thành nỗi sầu nhớ tin người đi ở phía Nam tổ quốc (“... bi quyển văn,... Nam trung thiên khách cận như hà, mục đoạn giao thông vô ký nhạn”) Bài “Văn thiền” (Nghe tiếng ve), cái tiếng ve nổi trong gió thu chỉ là điểm xuyết cho một âm thanh buồn cho một hồi tưởng cuộc tiễn đưa năm trước mà nỗi buồn đã làm héo cả liễu “Tống quân tằng thử địa, nhất biệt hốt kinh niên, sầu sái tràng đình liễu, thu phong khởi mộ thiền”. Bài “Hoa đào” (Đào hoa) từ một nét vẽ gợi nên một cảnh thực “Nhất thị hoa khai lộ tình, ca phong tiếu diễm dương thiên” (Sân sau nở một góc hoa, cười diễm lệ giữa trời ngợi gió) để gợi ra triết lý về vẻ đẹp đối với người thoát tục: sư, xử sĩ (lão tăng miết kiến ngộ đạo, xử sĩ dao tầm đắc tiên)... Thiên nhiên còn đóng một chức năng gợi khung cảnh hoặc ước lệ hoặc thực, nhưng mang màu sắc tâm trạng trong các mô típ gặp gỡ, chia tay, tiễn đưa, nhớ bạn... Chẳng hạn bài “Tống biệt”, cảnh khá ước lệ trăng đêm thu rọi sáng núi ải, có rượu tiễn, có chén sầu, nhưng lại mượn cảnh để diễn tả nỗi sầu và niềm nhớ mong giữa hai tâm tình. Bài theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ có chừng ấy hình ảnh và tâm tình nhưng nhờ một kỹ thuật tái cấu trúc hình ảnh và âm điệu nên trở thành một bài hay, nhất là các câu hai (Ảnh nhập ly diên, động khách bi), và câu kết (Bình phân thử địa chiếu tương tư). Đặc biệt cảnh tống biệt của thơ Miên Thẩm xuất phát từ một môi trường lịch sử biến động với bóng ngoại xâm, nên thiên nhiên trong một số bài đượm sắc hùng tráng (“Tòng quân hành”, “Tống Nguyễn mễ tòng quân”...), hoặc bi hùng (“Tống nhân tòng quân”). Thiên nhiên trong các bài nhớ bạn thường được vẽ nên với những nét ảm đạm như bài “Ức Bùi Lục” (Nguyệt lạc sơn thành yên lộ thâm, Ai viên đề đoạn dị triêm khâm) hoặc để nói lên cảnh côi chiếc vì xa bạn như bài “Tặng Cao Chu Thần”, ở đó có cảnh trời đất mù mịt, con người thui thủi một hình một bóng ven trời, vườn cũ tùng cúc hoang vắng (“Cực tích càn khôn nhất giới thân, thiên nhai hình ảnh tự tương thân, cố viên tùng cúc hoang tam kinh, tân dạ phong sương ức nhị nhân...”) Thiên nhiên trong một số bài thơ của Miên Thẩm mất hết cái vẻ thơ mộng để trở thành một nỗi kinh dị với các màu sắc ma quái, hung hiểm liên quan đến đối tượng miêu tả hoặc về chiến tranh như bài “Cổ chiến trường hành”, hoặc cảnh khắc nghiệt của rừng thẳm, suối hoang đối với người đãi vàng như bài “Kim hộ thán”, cảnh người nghèo phải làm kẻ lưu dân như bài “Lưu dân thán”, hoặc cảnh người nghèo cúng con chết trong bài “Mai thử y”. Đặc biệt bài “Quỷ khốc hành”, thiên nhiên trong đó mang màu sắc rùng rợn. Có thể nói thiên nhiên trong thơ Miên Thẩm ở một số bài còn gắn với đặc tính độc đáo trở đi láy đi láy lại trong một loạt bài đó là cảm quan về sự phế hưng, ở đây có lẽ ông đã tiên cảm cho hậu vận của vương triều dòng họ ông chăng? Nhưng bên dưới đó, còn là sự suy ngẫm cho lẽ đời ở trong các cặp đối nghịch: giàu/ sa sút, đông vui/ hoang vắng, tráng lệ/ điêu tàn như các bài “Phế trạch hành”, “Môn hữu xa hành”, “Đăng trấn vũ quán môn lâu”, “Phế viên”... Như đã nói trên, nhiều bài thơ thiên nhiên của Miên Thẩm kết đọng một triết lý về đạo nhàn, triết lý ẩn dật, ca ngợi cảnh thong dong tự tại giữa chốn lều tranh am cỏ, núi xanh, chùa vắng. Về loại thơ thiên nhiên triết lý này, có thể kể đến hàng chục bài. Tóm lại thiên nhiên trong thơ của Miên Thẩm rất đa dạng và có những sắc màu, ý nghĩa, chức năng nghệ thuật khác nhau tùy theo tâm trạng, ý tưởng và mục đích của nhà thơ ở từng bài thơ. Và chính thiên nhiên cũng liên quan đến một tâm trạng chủ yếu của thi sĩ, nỗi cô đơn trước cuộc đời và trước phong ba của lịch sử mà ở đó con người như Vương đã bất lực. Chỉ nhờ có nó mà người thi sĩ quên đi nỗi niềm sầu muộn trong triết lý của cái đẹp và sự thung dung. Dẫu sao, chính nhờ vậy mà thơ của Miên Thẩm có vẻ quyến rũ riêng... Lập đông- Kỷ Mão B.N (137-07-00) ------------------------------- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ưng Trình và Bửu Dưỡng: Tùng Thiện Vương, Huế- Sài Gòn, Nhà in Sao Mai, Thủ Đức, 1970. 2. Ngô Văn Chương, “Phân tích những khuynh hướng tình cảm, đạo lý, xã hội trong thi ca Tùng Thiện Vương", Tủ sách văn học, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, SG, 1970. 3. Thơ Tùng Thiện Vương, Ngô Linh Ngọc- Ngô Văn Phú dịch, Mai Ưng đề tự, Văn học, Hà Nội, 1991. 4. Trần Thanh Mai, Tuy Lý Vương, Huế, Ưng Linh xuất bản, 1938. 5. Trần Như Uyên. Những khuynh hướng chủ yếu trong thơ Tuy Lý Vương, Tiểu luận cao học, SG, 1967. 6. Thơ Tuy Lý Vương Miên Trinh, Trần Như Uyên dịch và giới thiệu, Bửu Cầm hiệu đính và đề tựa, Nxb Văn học và Sở VHTT Huế, 1992. |
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.