Thi pháp truyện cực ngắn

15:03 26/08/2014

HOÀNG LONG

Trên thế giới, thể loại truyện cực ngắn có nhiều tên gọi. Ngoài tên thông dụng nhất là “truyện cực ngắn” hay “truyện rất ngắn” thì còn có các tên truyện chớp, truyện ngắn ngắn…

“Trang Chu mộng vi hồ điệp” - Ảnh: internet

"sudden fiction" (truyện bất ngờ), "postcard fiction" (truyện bưu thiếp), "minute fiction" (truyện mini), "furious fiction" (truyện hỏa tốc), "fast fiction" (truyện nhanh), "quick fiction" (truyện vội), "skinny fiction" (truyện mỏng) và "micro-fiction" (vi truyện) hay một tên gọi đặc biệt là "truyện dài bằng hơi khói" (với ý nghĩa là thời gian để đọc nó chỉ bằng thời gian hút xong một điếu thuốc lá).

Người Trung Quốc gọi truyện cực ngắn là “vi hình tiểu thuyết”, người Nhật gọi là “Sho-to sho-to” tức phiên âm của chữ “short short story”. Sau này còn có tên “siêu đoản thiên tiểu thuyết” (chotanpen shosetsu) rất thịnh hành cho điện thoại di động. Có hàng trăm trang web chuyên về truyện cực ngắn với những giải thưởng riêng. Riêng Kawabata Yasunari thì gọi riêng thể loại truyện cực ngắn của mình sáng tác là “truyện ngắn trong lòng bàn tay” (Tenohira no shosetsu). Trong cuộc đời mình ông viết chừng 146 truyện trong lòng bàn tay và cho đó mới là tinh hoa của văn nghiệp mình. Vào những năm cuối đời Kawabata đã gắng cô đúc lại kiệt tác “Xứ tuyết” của mình thành một truyện ngắn trong lòng bàn tay”.

Tuy là một thể loại tương đối mới nhưng truyện cực ngắn đã có một lịch sử lâu đời. Ta có thể xem những câu thoại đầu, những mẩu chuyện trong Kinh Phật, ngụ ngôn Aesop… là những truyện cực ngắn tuyệt hay. Chẳng hạn như một câu trong kinh Pháp Cú “Voi không đi dạo chơi trên lối mòn thỏ chạy” cũng có thể xem là một truyện cực ngắn. Tuy không định danh là truyện cực ngắn nhưng những mẩu chuyện trong “Trang Tử - Nam Hoa Kinh” có thể coi là kiệt tác.  Chẳng hạn như truyện “Trang Chu mộng vi hồ điệp” sau đây:

“Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu” (Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê).

Rất nhiều nhà văn xuất sắc đều từng thử qua thể loại truyện cực ngắn. Ta có thể điểm qua những cái tên lừng danh như Franz Kafka, Jorge Luis Borges, Raymond Carver, John Updike… Trong số đó nổi tiếng nhất có lẽ là Augusto Monterroso (1921 - 2003) lừng danh như một “thiên tài của truyện cực ngắn” và được xem như một trong những nhà văn lớn nhất và kỳ đặc nhất trong văn chương Mỹ La-tinh thế kỷ 20. Ông có một tác phẩm được xem là ngắn nhất và nổi tiếng nhất thế giới trong loại truyện cực ngắn. Đó là truyện “Con khủng long”, chỉ có một câu ngắn 8 chữ tiếng Tây-ban-nha.

“Thức dậy, con khủng long vẫn còn đó”.

Vậy mà cái truyện cực ngắn này lại là đề tài cho nhiều luận án Tiến sĩ văn chương.

Tuy phát triển rực rỡ như vậy nhưng cho đến bây giờ ở Việt Nam vẫn còn nhiều hiểu lầm tai hại về truyện cực ngắn. Ngộ nhận thứ nhất là cứ nén dung lượng ngôn từ đến cực hạn là truyện cực ngắn. Chính vì vậy những tập truyện cực ngắn Trung Quốc, Việt Nam đều gần như là những đoản văn hay truyện ngắn rút gọn mà thành. Theo chúng tôi, truyện cực ngắn dĩ nhiên phải ngắn, nhưng không phải cứ ngắn là truyện cực ngắn. Một truyện cực ngắn vào khoảng 500 đến 700 chữ nhưng nó phải diễn tả được tư tưởng của tác giả, là một phần của bức tranh toàn thể. Nếu không chúng ta chỉ có những đoạn văn ngắn chứ không phải là truyện cực ngắn, có thể xem là những mẩu vụn cảm nghĩ chứ không phải là tư tưởng. Nếu tác gia có cách nhìn tư tưởng của riêng mình thì chỉ cần đọc vài ba truyện người ta có thể nhận ngay ra được là truyện của ai. Trong sáng tác truyện cực ngắn hiện nay, rất ít người có được điều này. Cho nên nếu để những truyện cực ngắn cạnh nhau chúng ta rất khó biết được tác giả, vì truyện nào cũng chỉ là những ý nghĩ vụn vặt, những cảm nghĩ rời rạc mà thôi. Muốn có đặc trưng riêng, tác giả phải có một tư tưởng và một cách diễn đạt của riêng mình để làm cho những truyện cực ngắn tạo nên một thế giới riêng, các truyện đứng cạnh nhau cùng soi sáng thế giới ấy.

Ngộ nhận thứ hai về truyện cực ngắn là xem “truyện cực ngắn là một thể loại bình dân”. Đây là ý kiến của Dương Hiếu Mẫn, Tổng biên tập tạp chí "Bách Hoa Viên" kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Truyện cực ngắn chọn lọc, được đánh giá là một người có công lớn trong sự nghiệp vun trồng thể loại truyện cực ngắn Trung Quốc. Theo chúng tôi đây là một quan niệm hết sức phiến diện và sai lầm vì không có thể loại bình dân hay quý tộc. Rơi vào tay cao thủ thì một lá cỏ mong manh không những có thể triển khai được một tầm sát thương rộng lớn mà còn thể hiện được một đường bay thanh thoát, phiêu diêu. Ngôn ngữ nói chung và thể loại nói riêng tự bản thân nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Ta nói cái gì và nói như thế nào mới chính là điều cốt tủy. Nếu như có sức nén của một tư tưởng thì một cuốn tiểu thuyết, một dòng thơ ngắn hay vài ba dòng chữ cũng gây nên một hiệu ứng thẩm mỹ như nhau. Hơn nữa, bất cứ thể loại văn học nào cũng có giới hạn. Bản thân con người cũng có giới hạn. Vấn để là xử lý “cái giới hạn” như thế nào, biết nương vào cái giới hạn để nói lên cái vô hạn. Điều đó phụ thuộc vào nội lực của người viết.

Như vậy, đặc trưng của truyện cực ngắn là gì? Theo chúng tôi một truyện cực ngắn phải cần bốn đặc điểm sau:

Thứ nhất mỗi truyện là một hình ảnh thể hiện tư tưởng và phát xuất từ bên trong, từ suối nguồn tâm linh sâu kín, từ nội tâm mãnh liệt của tác giả. Nhà văn phải có một nhân sinh quan của riêng mình, và tìm kiếm hình ảnh để diễn tả cái tư tưởng, nhân sinh quan đó. Chẳng hạn qua những truyện “Cây cầu” hay “Trước cửa pháp luật” ta thấy truyện cực ngắn của Kafka luôn nhớp nháp, nhầy nhụa một thứ đờm dãi, máu huyết của riêng ông với thứ không khí chập chờn đặc trưng của cơn ác mộng. Truyện hình thành từ sâu thẳm bản ngã Kafka và hình ảnh cây cầu chỉ là một cái cớ để thể hiện ý tưởng đó. Cái tư tưởng cuộc sống bình yên riêng tư của mình đột nhiên bị một yếu tố bên ngoài như luật pháp, một kẻ phá đám xen vào hủy hoại luôn hiện diện trong các tác phẩm của ông, làm thành một thế giới Kafka riêng biệt. Nhưng truyện cực ngắn là mảnh vỡ lấp lánh của thế giới ấy. Các hình ảnh như người bảo vệ trước cửa pháp luật, kẻ đi qua cầu, con kên kên, cảnh sát trong truyện cực ngắn đều là có thể xem là sự phản chiếu của một tư tưởng chung mà thôi.

Theo chúng tôi đây là đặc điểm quan trọng nhất vì con đường sáng tạo là hành trình phát kiến tâm linh. Viết là một sự chữa trị và một chuyển hóa tâm thức. Văn chương, triết học cũng là thứ gia vị để giúp mình sống hay hơn, nhân bản hơn giữa cuộc đời này. Bất cứ văn chương triết lý nào không giúp con người và cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn đều là thứ văn chương triết lý để chơi làm kiểng. Phải mở rộng và chuyển hóa tâm thức. Phải biết chấp nhận hiện thực và sống vui trong thế giới huyễn mộng này. “Chúng ta có thể trở nên nhân bản hơn bằng cách trở nên hoàn vũ hơn” (Okakura Tenshin).

Đặc trưng thứ hai của truyện cực ngắn là hình ảnh truyện hấp dẫn đủ để diễn tả tư tưởng. Hình ảnh con khủng long trong truyện của Augusto Monterroso hay con voi trong câu kinh Pháp cú “Voi không đi dạo chơi trên lối mòn thỏ chạy” ám ảnh người đọc, gợi lên nhiều suy tư. Do đó đây có thể xem là những truyện cực ngắn thành công. Hình ảnh truyện càng độc đáo thì càng để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc. Hầu như ai cũng bị ám ảnh bởi hình ảnh con kên kên mổ vào người trong truyện Kafka.

Nhà văn phải có một nhân sinh quan, một tư tưởng riêng mình về cuộc sống. Sau khi đã có một hệ tư tưởng riêng cho mình, người viết bắt đầu tìm kiếm hình ảnh. Hình ảnh đến từ bên ngoài nhưng là biểu tượng để nói về cái bên trong, cái nội tâm sâu kín, phát xuất từ một suối nguồn tâm linh mãnh liệt. Bởi văn chương diễn đạt tư tưởng bằng hình ảnh nên có thể nói kiếm tìm hình ảnh là công cuộc quan trọng nhất của sáng tạo sau việc phát kiến tâm linh.

Đặc trưng thứ ba là tính gợi mở. Tính gợi mở này có được do sự nén ngôn từ nên để lại rất nhiều khoảng trống, khoảng trắng. Sau mỗi truyện phải là một “hậu cảnh thăm thẳm” (từ của nhà văn Mai Sơn). Như một bài haiku Nhật Bản “ông lão ấy, cố quên đi chuyện tình, mưa mùa thu lất phất” nói về mối tình của ông già với người con dâu gợi cho chúng ta bao nhiêu ý niệm. Vì nén đến cực hạn nên mới mở rộng ra vô cùng. Trong tranh thủy mặc chúng ta cũng nhận thấy điều này qua triết lý “khoảng trắng là một phần của bức tranh”.

Đặc trưng cuối cùng theo chúng tôi là mỗi truyện cực ngắn là một thực thể sinh động, màu mỡ thịt da ngôn từ và hình ảnh chứ không phải chỉ là những câu văn cụt ngủn ghép lại với nhau. Tức là tuy dùng ngôn từ cực hạn nhưng truyện phải có da thịt, sức sống chứ không phải chỉ có xương cốt mà thôi. Trong ý nghĩa đó, những truyện chỉ có một từ rất khó có thể gọi là truyện cực ngắn.

Như vậy, sau khi tìm hiểu bốn đặc trưng trên, chúng ta thấy cái thế giới thống nhất của truyện cực ngắn đến từ sự nhất quán của nhân sinh quan và tư tưởng quan của tác giả. Có nghĩa là mỗi truyện cực ngắn chỉ là một mảnh trong trò chơi xếp hình, một góc của bức tượng hay một cây trong toàn thể khu rừng. Giữa các truyện cực ngắn có mối liên kết nội tại. Theo đó thì bớt đi một hai truyện độc giả cũng hình dung được thế giới riêng của nhà văn, thêm vào một hai truyện càng làm cho thế giới đó lung linh màu sắc. Những truyện chỉ là những hình ảnh khác nhau của cùng một bản thể.

Khi đọc truyện cực ngắn tức là ta bước vào một thế giới. Thế giới ấy sẽ có nhiều điểm tương đồng với ta nhưng cũng có phần khác biệt. Cái thế giới riêng tư ấy ta chỉ có thể bước vào và cảm nhận chứ không thể sửa sang hay bắt chước. Nó là độc sáng. Vì vậy những truyện cực ngắn kinh điển không ai có thể bắt chước được. Chúng hiện diện rất gần, ta có thể bước vào dạo chơi nhưng nếu muốn sửa sang, chúng ta hãy sáng tạo một thế giới khác, riêng của mình. Vì con người có thể có những tương đồng do cộng nghiệp nhưng do biệt nghiệp mà mỗi cá nhân lại khác nhau, riêng tư, độc nhất.

Đối với nhà văn sau khi tạo dựng thế giới truyện của riêng mình, y có thể ngồi xuống và quan sát. Có những chỗ thô nhám, cần phải sửa đổi, có những hình ảnh chưa rõ cần phải bổ sung. Đôi khi cần thêm các bảng dấu chỉ dẫn đường cho độc giả khỏi lạc lối bằng cách nhấn mạnh một vài hình ảnh quan trọng. Thế giới ấy sẽ tương thông với vô vàn các thế giới khác đã được những văn tài xuất chúng tạo ra. Độc giả có thể đi xuyên qua những thế giới ấy và tìm kiếm tâm hồn mình. Và khi ta đã đốt cháy hết mình cho sáng tạo, dựng lên một thế giới riêng tư tốt đẹp hết mức có thể được thì ta đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Và rồi ta rút lui khỏi thế giới, đội nón rơm, kiếm một ngọn núi nào ẩn dật, sống vui vẻ quên đời. Thế giới ta đã tạo ra đó tự đứng vững chãi một mình qua tháng năm qua biến thiên thời đại. Vì lẽ chính trị là nhất thời nhưng văn chương và sự nghiệp giáo dục con người là vĩnh cửu.

H.L
(SH306/08-14)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.