Thi nhân

16:34 31/10/2008
HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

Lúc còn sống ở quê cạnh sông Hoàng Hà, thể theo ước nguyện của chính mình và sự tán thành của song thân yêu quý ông đằm thắm, ông đã đính hôn với một vị tiểu thư con nhà khuê các - chỉ chờ ngày lành tháng tốt hôn lễ sẽ được cử hành nay mai. Thuở ấy Han Fook tuổi chừng đôi mươi, đã là một công tử dung mạo đẹp đẽ, khiêm tốn, cung cách đối xử nhã nhặn, đang được giáo huấn trong các môn học thuật và mặc dù tuổi còn trẻ chàng đã nổi tiếng trong giới văn chương nơi quê nhà qua một vài bài thơ ưu tú. Tuy không phải là giàu có tột bực, nhưng tương lai chàng sẽ thừa hưởng một tài sản khá giả cộng thêm vào đấy của hồi môn của vị hôn thê lại sẽ được gia tăng thêm; gia dĩ vị hôn thê này lại còn rất đỗi xinh đẹp và đức hạnh, cho  nên ta thấy hạnh phúc của vị công tử này tuồng như không thiếu một điều gì nữa. Dù vậy chàng vẫn cảm thấy chưa được hoàn toàn thỏa mãn bởi vì  tim chàng vẫn còn tràn đầy một tham vọng: Chàng muốn trở nên một thi nhân toàn bích.

Chuyện xảy ra vào một buổi chiều, đương lúc trên sông vừa khởi xướng một buổi tiệc rước đèn lồng, riêng Han Fook đang còn một mình lang thang trên bờ bên kia của dòng sông. Chàng tựa mình vào một thân cây mọc nghiêng trên sông và lặng ngắm hàng nghìn ánh sáng bơi lượn chập chờn và rung rinh trên mặt nước, chàng trông thấy bên kia các vị công tử và tiểu thư rực rỡ trong xiêm áo dạ hội như những bông hoa xinh đẹp đang chào hỏi nhau, chàng nghe những âm thanh lao xao yếu ớt vang vọng trên sóng nước lấp lánh ánh đèn, tiếng ca của các nữ ca nhân, thanh âm réo rắt của hồ cầm, những giai điệu du dương ngọt ngào của những người thổi tiêu và trên tất cả những cảnh tượng ấy chàng thấy bóng đêm xanh phớt như vòm của một ngôi đền đang lơ lửng chơi vơi trên đầu mình.

Chàng trai trẻ nghe tim mình hồi hộp, bởi vì đứng đó như một khán giả cô đơn, chàng được dịp chiêm ngưỡng tùy thích tất cả những vẻ đẹp ở bên kia bờ sông. Và mặc dù chàng rất muốn đi qua bờ bên kia để nhập cuộc với mọi người, đến ngồi cạnh vị hôn thê và các bạn hữu cùng nhau thưởng thức buổi tiệc vui, dẫu thế chàng lại thích ngồi lại bên này hơn gấp bội  để được làm một khán giả tinh tế thâu nhận mọi cảnh tượng ở bên kia bờ và phản ảnh lại trong một bài thơ tuyệt hảo: Màu xanh thắm của bóng đêm, kiểu đùa chơi ánh sáng của sông nước cũng như sự khoái lạc của khách dạ hội và nỗi hoài vọng của kẻ đứng nhìn im lặng, đang tựa mình vào thân cây vắt ngang trên bờ sông.

Chàng cảm thấy rằng ở nơi tất cả những gì tốt đẹp nhất, trong mọi khoái lạc trên trái đất này chưa bao giờ chàng được hoàn toàn thoải mái và vui sướng trong tim, rằng trong cuộc đời này chàng vẫn là một kẻ cô đơn, một người ngoại cuộc đứng nhìn, một kẻ lạ mặt, và chàng cảm nhận rằng giữa đám tha nhân tuồng như tâm hồn chàng được trời phú cho tính vừa cảm nhận được vẻ đẹp trên trần ai đồng thời lại mang trong lòng nỗi ước ao thầm kín của một kẻ xa lạ. Chàng đâm ra sầu muộn, cúi đầu suy ngẫm về những điều trên, mọi suy tư của chàng vẫn xoay quanh một mục tiêu duy nhất, ấy là, đối với chàng hạnh phúc thật sự và thỏa mãn sâu sắc chỉ đến được một khi chàng có thể đạt được nghệ thuật phản ánh cõi trần một cách hoàn hảo trong các bài thơ và chính trong những hình ảnh phản diện này chàng sẽ chiếm hữu cõi trần đã được thanh lọc và vĩnh cửu hóa.

Vừa khi Han Fook còn chưa biết mình đang tỉnh hay mơ với những ý nghĩ này, chàng chợt nghe một tiếng động sẽ sàng và đột nhiên thấy một người lạ mặt đứng bên cạnh gốc cây lúc nào không hay, một lão nhân trong chiếc áo rộng màu tím với dáng dấp uy nghi đáng kính. Chàng vội sửa mình đứng thẳng người và chào lão nhân với lối chào dành riêng cho những người trưởng thượng và quý phái. Người lạ mặt chỉ mỉm cười, không chào đáp lại mà chỉ ngâm lên một vài câu thơ trong đó nói lên được những gì mà chàng thiếu niên công tử vừa mới cảm nhận, nhưng lại với một lối diễn tả thật là toàn hảo và tuyệt vời, theo đúng quy luật của nghệ thuật thi ca, những câu thơ đẹp đến nỗi trái tim của người thư sinh tưởng như dừng lại vì xiết bao kinh ngạc.

“Ồ, ngài là ai?” chàng kêu lên đồng thời cúi rạp người xuống, “Ngài là ai mà lại có thể soi thấu tâm hồn thiếu sinh và phát biểu những câu thơ tuyệt tác mà thiếu sinh chưa từng được nghe từ các bậc sư phụ của thiếu sinh?”
Người lạ lại mỉm cười với nụ cười của đấng toàn hảo và bảo: “Nếu con muốn trở thành một thi nhân thì hãy đến với ta. Túp lều của ta con sẽ tìm thấy ở đầu nguồn của dòng đại giang trong rặng núi Tây Bắc. Tên ta là đạo sư Hoàn Mỹ Từ”.
Nói xong lão nhân bước vào dưới bóng thưa của cây và thoáng chốc đã biến mất. Han Fook sau khi đã bỏ công sục sạo tìm kiếm lão già mãi không được, bấy giờ mới tin chắc rằng vừa qua chỉ là một cơn mộng mị do sự mỏi mệt gây ra. Chàng vội vã đi đến hội chơi thuyền ở bên kia sông và gia nhập vào cuộc vui chung. Nhưng giữa cuộc chuyện trò và âm hưởng đàn địch, bên tai chàng vẫn như còn nghe giọng nói đầy bí ẩn của người lạ, còn tâm hồn chàng thì như đã bay theo lão nhân kia, bởi vì chàng ngồi đó với một dáng điệu xa xôi và đôi mắt mơ màng ngẩn ngơ, giữa đám khách vui nhộn đang chọc ghẹo cợt đùa vẻ si tình của chàng trai Han Fook.

Sau đó vài hôm thân phụ Han Fook tỏ ý mời bạn bè và thân quyến đến để định ngày hợp hôn cho con. Nhưng bấy giờ chính chàng rể lại lên tiếng chống chế và thưa rằng: “Thưa phụ thân, xin tha thứ cho con nếu con xúc phạm bổn phận phục tùng mà mỗi người con đều phải có đối với phụ thân. Nhưng cha đã thừa biết hoài bão mãnh liệt của con như thế nào trong việc trau dồi mình cho thực xứng đáng trong nghệ thuật của một thi nhân, mặc dù có một số bạn bè khen ngợi những bài thơ của con nhưng con vẫn biết rằng mình là người mới bắt đầu và đang tập tễnh ở bậc thang thứ nhất trên con đường nghệ thuật. Bởi thế con xin cha hãy thư thả cho con một khoảng thời gian còn độc thân và theo đuổi việc học, bởi vì con biết rằng một khi đã thành gia thất thì trước tiên phải lo chu toàn cho vợ con và gia đình, việc ấy sẽ làm cho con xao lãng công việc học hỏi kia. Hiện nay con đang còn trẻ tuổi, không bận bịu những bổn phận nào khác, con muốn được sống một khoảng thời gian trọn vẹn dành cho nghệ thuật thi ca của con mà con hy vọng sẽ có được niềm vui và sự tán thưởng”.

Những lời này làm cho phụ thân chàng ngạc nhiên, ông bảo: “Chà, cái nghệ thuật kia đối với con có vẻ là cái gì thân thiện và quý báu còn hơn tất cả các thứ khác trên đời đấy nhỉ!, đến nỗi vì nó mà ngay cả đám cưới của con, con cũng muốn hoãn lại. Này, hay là nếu có chuyện gì xảy ra giữa con và cô dâu thì con hãy nói cho cha nghe để cha có thể giúp con làm lành với cô ta hay kiếm cho con một người khác nhé!”
Nhưng chàng trai thề rằng chàng ta vẫn yêu quý người ý trung nhân của mình không kém chi ngày trước, vẫn sẽ còn yêu mãi và không có một bóng đen của sự cãi vã nào chen giữa hai người. Đồng thời chàng kể cho phụ thân nghe chuyện vị đạo sư hiện lên báo mộng cho chàng trong một giấc mơ vào đêm hội chơi đèn và chàng không ao ước gì hơn tất cả các hạnh phúc trên đời ngoài việc được trở thành môn đệ của vị đạo sư kia.

“Được rồi”, phụ thân chàng bảo, “Như vậy ta gia hạn cho con một năm. Trong khoảng thời gian này con mặc sức theo đuổi giấc mộng của con mà có lẽ một vị thần đã giáng xuống cho con!”.
“Cũng có thể là hai năm thưa cha”, Han Fook vừa ngần ngừ vừa thưa, “Ai mà biết được phụ thân nhỉ”. Đến đây người cha cho phép chàng lui bước và tỏ ra ủ dột, còn chàng thiếu niên bèn thảo cho ý trung nhân một lá thư, bái biệt và lên đường.
Sau khi đi một khoảng rất lâu chàng tìm đến được nơi đầu nguồn của dòng sông, ở trước túp lều, vị lão nhân mà chàng đã gặp bên gốc cây ở cạnh bờ sông đang ngồi trên một tấm cói đan. Lão ta đang ngồi đánh cây đàn cổ nguyệt và khi thấy có người khách đang tiến đến gần với vẻ kính cẩn, lão ta vẫn không đứng dậy và cũng chẳng hỏi han gì cả, chỉ điềm nhiên mỉm cười trong lúc vẫn thả những ngón tay mềm mại lùa trên các phím đàn. Từ đó một thứ âm nhạc tuyệt diệu chảy tuôn ra như một đám mây bạc đang vần vũ lướt qua thung lũng, tuyệt vời đến mức chàng thiếu niên dừng bước sững sờ, kinh ngạc và trong chốc lát quên bẵng đi tất cả mọi sự khác trong nỗi kinh ngạc thú vị kia, cho đến khi lão đạo sư Hoàn Mỹ Từ bỏ cây đàn nhỏ sang một bên, bước vào túp lều tranh.

Run sợ và khâm phục, Han Fook bước theo ông lão, lưu lại đấy và xin lão đạo sư thâu nhận chàng làm người hầu hạ và đồ đệ.
Qua một tháng chàng học được cách khinh thị tất cả những bài thơ mà trước đó chàng đã sáng tác và khai trừ chúng ra khỏi ký ức của mình. Sau vài tháng, chàng lại đoạn diệt tất cả những bài thơ mà chàng đã học với các sư phụ tại quê nhà ra khỏi trí nhớ của chàng. Lão đạo sư hầu như không nói một tiếng nào với chàng, ông ta chỉ yên lặng dạy cho chàng nghệ thuật đánh đàn cổ nguyệt cho đến khi cả bản thể của người đệ tử đều được âm nhạc chảy suốt qua. Thuở trước Han Fook có làm một bài thơ nhỏ, trong đó chàng tả dáng bay của đôi chim trên bầu trời mùa thu, bài thơ này chàng rất tâm đắc. Chàng không dám đọc nó ra cho sư phụ nghe nhưng vào một buổi chiều đứng xa thảo am chàng lại ngâm lên, chắc chắn lão già đã nghe rõ bài thơ ấy. Nhưng chính lão lại chẳng nói một tiếng nào. Lão chỉ khảy nhẹ trên cây đàn cổ nguyệt, lập tức không gian bỗng trở lên lạnh mát, bóng chiều xuống nhanh, một luồng gió sắc bén bốc lên, mặc dù lúc ấy đang mùa hè, và trên bầu trời xám ngắt có đôi chim vạc đang lướt bay trong nỗi nhớ nhung vần vũ kiếp hạc nội mây ngàn, tất cả những cảnh tượng này so với các câu thơ của người đệ tử lại đẹp đẽ và hoàn hảo gấp bội, đến nỗi chàng trở nên buồn bã, im lặng và tự thấy mình vô giá trị... Cứ thế mỗi một lần lão đạo sư đều hành động y hệt như vậy, cho đến khi một năm trôi qua lúc ấy Han Fook đã học được ngón đàn cổ nguyệt hầu như hoàn hảo, nhưng nghệ thuật thi ca thì càng ngày chàng càng thấy khó khăn và cao xa vời vợi.

Được hai năm tròn, bấy giờ Han Fook cảm thấy nhớ quay quắt những người thân, nhớ quê hương, nhớ vị hôn thê, chàng bèn xin sư phụ cho chàng hồi hương.
Lão đạo sư mỉm cười và gật đầu: “Con được tự do”, lão nói, “Con muốn ở, con muốn đi, hoàn toàn tùy theo ý thích”.
Người học trò bèn lên đường và mải miết đi cho đến một buổi sáng mai vào lúc tinh sương chàng đứng bên bờ sông quê cũ, nhìn vọng qua chiếc cầu vồng hướng về cố quận của mình. Chàng lần mò vụng trộm vào ngôi vườn của phụ thân và nghe hơi thở của người cha thoát ra khỏi cửa sổ phòng ngủ của ông, người cha còn đang say giấc, rồi chàng lại lẻn vào trong vườn cây nhà người yêu của chàng, trèo lên cây lê và từ ngọn cây chàng thấy người yêu đang đứng trong the phòng chải tóc. Và trong khi so sánh tất cả những cảnh tượng mà chàng đang trông thấy tận mắt với hình ảnh mà chàng đã vẽ ra trong cơn nhớ nhà của mình, Han Fook bấy giờ mới nhận rõ rằng quả thật chàng được sinh ra để làm thi nhân, chàng nhận ra rằng trong các giấc mơ của nhà thơ đều ẩn chứa một vẻ đẹp và một sức quyến rũ mà người ta hoài công tìm kiếm không ra ở nơi những sự vật của thực tại. Chàng bèn leo xuống cây, trốn khỏi khu vườn, băng qua con cầu ra khỏi quê cũ, trở lại chốn thung lũng cao trong rặng núi.

Ở đó lão đạo sư vẫn còn ngồi như thuở trước trên chiếc chiếu đơn sơ, đang khảy cây đàn cổ nguyệt, và thay lời chào, lão sư ngâm lên hai câu thơ nói về sự đem đến hạnh phúc của nghệ thuật, lời thơ thâm thúy và sảng khoái khiến cho khi nghe, người đệ tử xúc cảm đến nỗi hai mắt đều đẫm lệ.
Thêm một lần Han Fook lưu lại bên đạo sư Hoàn Mỹ Từ, và vì chàng đã thạo chơi đàn cổ nguyệt cho nên lần này ông lão lại dạy cho chàng học đánh đàn kim huyền cầm, và ngày tháng thoắt đi như tuyết tan trong gió đông.
Có hai lần nữa lại xảy ra, lúc ấy cơn nhớ nhà lại thắng thế. Một lần chàng bí mật chạy đi trong đêm, nhưng trước khi đến được khúc quanh cuối cùng của thung lũng, có một ngọn gió đêm nào đó thổi qua cây đàn kim huyền treo trước cửa lều, những âm thanh chạy trốn đuổi theo chàng và gọi chàng trở lại, đến nỗi chàng không cưỡng nổi phải quay về.

Lần thứ hai chàng mơ thấy mình đang trồng một cây con ở trong vườn nhà, vợ chàng đứng bên cạnh và những đứa con của chàng đang dùng rượu và sữa tưới cây. Khi tỉnh giấc, ánh trăng chiếu vằng vặc vào phòng, chàng nhổm dậy bàng hoàng, chợt thấy lão già nằm cạnh đang ngủ say, thấy bộ râu lão đang rung động nhẹ nhàng; bấy giờ chàng bỗng thấy thù ghét cay độc cái con người nằm đấy, cái người mà theo chàng nghĩ đã phá hoại cuộc đời chàng, đã đánh lừa chàng mất cả tương lai. Chàng toan nhảy xổ vào lão ta và giết chết lão, vừa lúc ấy lão già mở mắt ra, lập tức mở miệng mỉm cười với một vẻ hiền lành, tế nhị và buồn bã khiến cho người học trò bị tước mất khí giới.

“Này Han Fook, con hãy nhớ”, lão già nói nhỏ nhẹ, “Con hoàn toàn được tự do làm những gì con thích, con có thể thù ghét ta và đập chết ta, chuyện thật đơn giản”.
“Ồ, làm sao tôi có thể ghét thầy được”, người thi sĩ kêu lên với cử chỉ nồng nhiệt, “Điều ấy cũng như là con muốn thù ghét chính ông trời vậy”.
Thế là chàng lưu lại và học đánh đàn kim huyền cầm, liền sau đó chàng học thổi sáo và sau đấy chàng bắt đầu được thầy hướng dẫn cách làm thơ, và dần dần chàng tiếp thu được nghệ thuật bí truyền nọ, vẻ ngoài như chỉ nói lên cái đơn giản và bình thường, nhưng với cái đơn sơ ấy có thể khích động tâm hồn của người nghe như cơn gió lùa vào trong mặt nước. Chàng diễn cả cảnh mặt trời mọc, chừng như mặt trời còn ngập ngừng ở trên sườn núi, mô tả vẻ thoắt đi không tiếng động của bầy cá khi chúng như chiếc bóng mất tăm trong làn nước, hay dáng đong đưa của cây liễu non xanh trong cơn gió xuân, và khi người ta nghe tả, thì đó không chỉ là mặt trời, đó không chỉ là cuộc giỡn chơi của loài cá, đó không chỉ là lời thì thầm của cây liễu, mà mỗi lần như thể, cho từng khoảnh khắc ngắn ngủi cả bầu trời và trái đất đang cùng nhau hòa điệu trong một khúc nhạc toàn hảo, và mỗi một người khi nghe, đều tưởng đến trong niềm thích thú hay nỗi đau thương những gì mà mình đã yêu thương hay thù ghét, đứa trẻ thì nghĩ đến những trò chơi, chàng trai thì nhớ đến tình nhân, người già thì nghĩ đến cái chết....

Han Fook không còn biết đã bao nhiêu năm chàng lưu lại bên cạnh lão sư nơi đầu nguồn của dòng đại giang kia nữa. Lắm khi chàng cứ tưởng như mới ngày hôm qua chàng vừa bước chân đến chốn thung lũng này và được đón tiếp bằng khúc nhạc cổ nguyệt của lão đạo sư, cũng lắm lúc chàng lại cảm thấy như thể đàng sau chàng tất cả mớ tuổi nhân sinh và mọi mảnh thời gian đều tàn rụng và trở thành rỗng không...
Thế rồi có một buổi sáng chàng thức dậy một mình trong căn lều, chàng đi tìm và réo gọi sư phụ khắp mọi nơi nhưng chẳng thấy lão đâu, lão già đã mất hút. Giữa khuya, mùa thu như chợt đến, một cơn gió căm rát lay chuyển cả túp lều, và trên triền núi những đàn chim thiên di đang lũ lượt bay đi mặc dù lúc ấy chưa đến mùa chim bay. Bấy giờ Han Fook bèn tháo đàn đem theo mình, xuống núi đi về vùng đất quê, và mọi nơi mỗi khi chàng gặp bóng người, đều thấy họ chào chàng với lời chào dành cho những người trưởng thượng và quý phái. Và khi chàng về đến cố hương thì thân phụ, vị hôn thê và cả quyến thuộc đều đã quá vãng, trong căn nhà xưa toàn những người xa lạ cư ngụ.

Nhưng vào buổi chiều lại có buổi tiệc rước đèn trên sông và ở phía bên kia thi nhân Han Fook đứng trên bờ sông u tối, tựa mình vào một cây cổ thụ và khi chàng bắt đầu dạo chơi cây đàn cổ nguyệt, thì những người thiếu phụ bên kia thở dài, đăm đắm nhìn vào bóng đêm một cách mê mải và bồn chồn, còn những người trai trẻ thì lên tiếng gọi tìm người đánh đàn cổ nguyệt mà họ không thể nhìn thấy được, họ la to lên rằng không ai trong bọn họ đã có lần nghe được những âm giai như thế nơi một cây đàn cổ nguyệt. Han Fook chỉ mỉm cười. Chàng nhìn vào dòng sông, nơi những hình ảnh phản chiếu của hàng nghìn cây đèn lồng đang bơi lung linh, và trong cùng một lúc với nhãn quan không phân biệt những hình ảnh phản chiếu trong sông với những lồng đèn thực sự trên sông, giữa ảo ảnh và thực tại, chàng không còn tìm thấy trong tâm hồn mình một sự phân biệt nào nữa giữa buổi tiệc hôm nay và buổi tiệc ban đầu thuở nọ, lúc chàng còn là một thiếu sinh cô đơn đứng ở chốn này tình cờ nghe được những lời bí ẩn của vị đạo sư xa lạ.
   (Trích trong tập “Huệ tím và những chuyện khác” của Hermann Hesse)
                                    THÁI KIM LAN dịch

(nguồn: TCSH số 236 - 10 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.

  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".

  • ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

  • ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.