Thay đổi tư duy để tái sinh nghệ thuật chèo

09:14 27/11/2020

Sau nhiều lần cách tân, sân khấu nghệ thuật chèo vẫn không thoát khỏi những khó khăn. Nhiều nghệ sĩ cho rằng, để chèo được tái sinh thì phải thiết kế lại tư duy để chèo thu hút khán giả.

Theo nhiều nghệ sĩ, để sân khấu chèo thu hút được khán giả thì buộc phải thay đổi. Ảnh: cheo 48h.

Cùng mục đích đó, trong khuôn khổ Liên hoan Sáng tạo và Thiết kế Việt Nam 2020, Workshop “Tái sinh nghệ thuật chèo với tư duy thiết kế” đã được diễn ra. Các nghệ sĩ đã hướng dẫn sinh viên Trường ĐHQG Hà Nội, Trường ĐH Việt Nhật và các bạn trẻ quan tâm tới nghệ thuật chèo.

Lao dốc không phanh

Theo các nghệ sĩ có nhiều năm gắn bó với nghệ thuật chèo, thì những năm 1960 - 1970, sân khấu chèo cực kỳ thịnh vượng. Khán giả phải rất khó khăn có thể chen chân mua vé.

Đến thập niên 1980, sân khấu chèo bị lấn át bởi cải lương và bắt đầu “lao dốc không phanh”. Những buổi diễn thưa dần khách đến rồi triền miên cho đến hôm nay. Trong suốt vài chục năm, nhiều nghệ sĩ chèo đã phải “bỏ nghề chạy lấy người” vì không đủ sống.

Cũng trong ngần ấy thời gian, nhiều nghệ sĩ liên tục tìm lối đi mới cho chèo. Đạo diễn Doãn Hoàng Giang là một ví dụ, ông tiên phong trong tư duy để làm mới sân khấu chèo truyền thống.

Ngày đó, Doãn Hoàng Giang liên tiếp dựng những vở diễn theo phong cách hiện đại như “Nàng Sita”, “Ngọc Hân công chúa”, “Biển khổ”.

Cho là tư duy tách rời, làm hỏng nền tảng truyền thống nên đạo diễn đã phải chịu nhiều chỉ trích. Đặc biệt là tiểu xảo hát nhép (cắm hát) mà Doãn Hoàng Giang là người đầu tiên đưa vào sân khấu kịch hát dân tộc cùng với lý giải “gương mặt đẹp dễ thu hút người xem”.

Quả đúng vậy, dù không biết hát nhưng với vẻ đẹp trời phú Lâm Bằng vẫn trở thành một hiện tượng sân khấu. Lâm Bằng cùng Quốc Chiêm đã trở thành cặp diễn viên rất sáng giá lúc bấy giờ. Tuy nhiên, sau một thời gian thì triết lý “gương mặt đẹp dễ thu hút người xem” không thể tồn tại. Tuy vậy, đạo diễn Doãn Hoàng Giang vẫn được coi là “người hùng” khi đã vực dậy một nhà hát đang trong cảnh “chết lâm sàng”.

Nhà viết kịch Trần Đình Ngôn cho rằng, có thời gian đến 70% các nhà hát trên cả nước bước vào cuộc cách tân, đổi mới nghệ thuật chèo để chiều theo thị hiếu của khán giả. Các loại chèo lai tạp được một số nghệ sĩ tận dụng triệt để nhằm thu hút người dân có điều kiện bỏ tiền mua vé.

Chèo thực sự không còn đất sống tại các thành phố mà chỉ lay lắt tại các vùng quê để phục vụ khán giả lớn tuổi. Vì vậy, kỹ năng diễn xuất và kỹ thuật hát chèo của các diễn viên mai một và xa dần nền tảng truyền thống. Sự cách tân giúp các nghệ sĩ sung túc trong khoảng vài năm, nhưng đồng thời cũng “bức tử” một thế hệ làm nghề.

Nhiều bạn trẻ đã và đang quan tâm đến các cuộc thi liên quan đến chèo. Ảnh: cheo48h.


Buộc thay đổi để chèo “được sống”

Trong khi nghệ thuật chèo cứ loay hoay không tìm ra lối đi, thì tư duy đổi mới (nếu có) dễ bị quy vào sự phá phách. Chính vì vậy, BTC chương trình “Tái sinh nghệ thuật chèo với tư duy thiết kế” mở rộng quy tụ người dự thi ý tưởng dù thuộc bất kỳ ngành học hay lĩnh vực nào.

Từ khoa học xã hội, nhân văn, nghệ thuật, kỹ thuật, thiết kế, marketing... sẽ cùng hợp tác, làm việc theo nhóm, ứng dụng quy trình tư duy thiết kế để tạo ra các giải pháp sáng tạo đưa chèo đến gần hơn với công chúng.

Ông Lê Minh Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn, Trưởng ban Tổ chức cuộc thi, cho hay: Cuộc thi được tổ chức với mong muốn bảo tồn tinh hoa văn hoa dân tộc, giới thiệu, quảng bá, tôn vinh nghệ thuật sân khấu chèo trong đời sống văn hóa.

Trước đó, Bộ VH-TT&DL cũng đã tổ chức nhiều cuộc thi tài năng, liên hoan chèo toàn quốc, tạo sân chơi lành mạnh để các nghệ sĩ trẻ giao lưu, trao đổi, học tập kinh nghiệm, nâng cao chất lượng biểu diễn nghệ thuật sân khấu…

Ông Tuấn cho rằng, số lượng thí sinh đăng ký tham dự cuộc thi năm nay đông hơn các năm trước. Các thí sinh lựa chọn trích đoạn mà trước đó đã có nhiều nghệ sĩ biểu diễn thành công cũng sẽ tạo ra hấp dẫn cho cuộc thi. Bởi để tạo dấu ấn, đòi hỏi các thí sinh phải không ngừng nỗ lực trong tập luyện và đòi hỏi phải sáng tạo để lại dấu ấn riêng hay hơn.

NSND Thanh Ngoan, Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam chia sẻ: Là đơn vị được coi như “anh cả” với gần 70 năm hình thành và phát triển, nhà hát có trách nhiệm bảo tồn và gìn giữ nghệ thuật chèo. Hiện nay nhà hát có 5 thế hệ đứng trên sân khấu, do đó về nghề nhà hát phải thường xuyên đào tạo từ diễn viên đến nhạc công để lấp đầy những khoảng trống của các thế hệ đi trước.

Tuy nhiên, NSND Thanh Ngoan thừa nhận, nghệ thuật chèo đang dần mai một. Người nghệ sĩ cần có trách nhiệm định hướng cho khán giả, những người yêu chèo, những người làm chèo nhận diện được thế nào là chèo một cách đúng nghĩa hay kịch cắm hát.

Dù các nghệ sĩ sân khấu chèo rất cố gắng nhưng có thể nói rằng, trong thời đại công nghệ 4.0, các loại hình nghệ thuật phát triển mạnh mẽ thì chèo lại cứ như bị “lạc dòng”. Không ít giới trẻ hiện nay không biết chèo là gì, chưa một lần nghe hát chèo, họ ngơ ngác khi được ai đó nói về chèo.

Thế nên thay đổi tư duy là cần thiết, nhưng làm sao phải kéo được khán giả đến sân khấu, đưa chèo đến một cách sâu rộng với giới trẻ. Khi người trẻ yêu chèo, thì sân khấu sẽ không còn trống ghế, nghệ sĩ không còn hiu quạnh. Và quan trọng là văn hoá truyền thống có cơ hội tái sinh.

Theo Hòa Siêu - GD&TĐ

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "

  • Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.

  • Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H

  • Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.

  • Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".

  • (Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.

  • Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?

  • Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.

  • Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.

  • Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!