Thành phố và chim

15:54 11/04/2018

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
                                    Bút ký

Chưa cần đến âm nhạc, Huế từ trong tâm hồn nó đã mang sẵn một mêlôđy của riêng mình.

Ảnh: internet

Là thành phố vườn, Huế tràn đầy thanh âm do thiên nhiên ban cho: dàn đồng ca của ve sầu mùa hè, tiếng hót trong và cao vút của ve kim như tiếng đàn viôlông mùa thu, lời nỉ non của côn trùng trong những khu vườn mùa đông, và cả bốn mùa, ôi Huế bốn mùa đầy tiếng chim.

Hêminguê có lần nhận xét rằng những người già thường ngủ muộn và dậy sớm hơn mọi người chung quanh, để cảm thấy cuộc đời dài hơn. Có lẽ đó là tình yêu cuộc sống theo cách của người Mỹ. Người già ở Huế thường ngủ sớm và dậy sớm, ngồi trước hiên để nghe chim hót. Bằng linh cảm loài chim vẫn đón nhận những tia nắng từ cõi xa xôi, và tiếng ca chào bình minh của loài chim trong những khu vườn Huế là một khúc nhạc kỳ diệu thanh lọc tâm hồn, dọn mình cho những khát vọng vĩnh hằng. Chính con người thi sĩ của Ngô Kha, vừa bắt đầu tuổi trẻ nồng nhiệt của mình, đã phát hiện rất sớm ý nghĩa thẳm sâu đó của bản thông điệp tiếng chim: "Ước mong như người già - Sớm mai thức dậy nghe chim kêu".

Sinh ra ở Huế, trước khi kết bạn với con người, thì người ta đã biết bầu bạn với loài chim, từ thuở chưa vào trường, và cứ thế cho đến lớn đến già. Thế hệ tôi, tôi vẫn còn kịp thấy một Huế đầy chim. Thuở ấy dọc đường Trần Hưng Đạo, khoảng trước trường Pôn-Be cũ còn những rặng bút bút cổ thụ, trên đó vào cuối mỗi chiều đàn cò ở đâu về ngủ, đậu trắng vòm lá, kêu xao xác cả quảng đường trước cửa Thượng Tứ. Giá như bây giờ đàn cò vẫn còn, mỗi chiều trẻ con lại đổ ra lề đường đứng ngóng chim về, thành phố sẽ dễ thương biết mấy!

Quạ không phải giống chim thân mật với con người, những tiếng kêu của nó vẫn vang vọng mãi nỗi nhớ làng quê mùa trái chín. Kỷ niệm tuổi thơ của tôi gắn liền với những ngày việc họ việc làng ở vùng Long Hồ, với lũ quạ xúm xít quanh giếng để rình đánh cắp thịt sống, đuổi không chịu đi, lần khân hơn gà vịt. Quạ rất được kính nể trong tập quán dân gian ở Huế. Nhiều người nghe quạ kêu liền ra hiên đứng chắp tay vái theo, thậm chí ông hoàng Tuy Lý còn vâng theo mẹ mà kiêng tên Quạ, gọi chệch ra là "Quệ". Lòng kính trọng dân giã ở người Huế dành cho loài quạ xuất phát từ một lẽ rất là đạo lý, bởi vì quạ vốn nổi tiếng là con chim có hiếu.

"Ơi đò ca cút! cho qua một chút!" Tiếng chim ca cút gọi đò trên phá Tam Giang kể lại truyền thuyết bi thương của hai người tình chung thủy, đấy là chữ tình, trong khi ở vùng nội ô chim ca cút hạ giọng thành "Ôi thôi rồi cơ cuộc!", kêu sầu về cuộc khởi nghĩa thất bại và vua Duy Tân phải đi đày; đấy là chữ trung. Tâm hồn Huế xưa kia vẫn mang những buồn vui theo bóng chim. Con chim khách nào kêu "chẻo chè chẻo chẹc" trên đọt cau trước ngõ, ấy là niềm vui chờ bạn đến chơi, và nếu con chim chèo bẻo nào không đậu trên ngọn hóp lắt lẻo nơi hàng dậu, thì ô hô! điều ấy có nghĩa là bi kịch đã xảy ra đâu đó nơi cõi lòng: "Ai làm cho đó xa đây - cho con chim chèo bẻo phải xa cây măng vòi ".

Tưởng không cần nhiều hơn để nhận ra rằng có bao nhiêu điều trong đời sống nội tâm của người Huế đã hình thành qua tình bạn lâu dài với chim đến nỗi người ta đã mang theo tiếng chim vào âm nhạc để cố gắng đạt tới nỗi lòng, như trong bài Lý qua đèo. Đó là một khuôn mặt vô vàn của thiên nhiên Huế ba bốn mươi năm về trước.

Bây giờ thì tất cả đã bay về phương trời nào không biết, những đàn cò hoàng hôn, lũ quạ mùa mít chín, con chim ca cút kêu đò, con chim khách lẫn vườn cau, con chim chèo bẻo lẫn cây măng vòi, và sau cùng, cả con chim bói cá sặc sỡ bay vù qua ký ức tuổi thơ của tôi, mê hoặc như ảo ảnh. Bây giờ Thành phố vắng bóng chim, hầu như chim chóc đã bỏ Huế mà đi. Nguồn cơn ấy bởi vì đâu? Vì chiến tranh, vì mùi ét xăng và mùi hóa chất trên đồng ruộng, vì nhiều lý do bất khả kháng. Nhưng điều đáng giận nhất là chính vì người đời đã quên chim, để mặc cho những kẻ vụ lợi tha hồ tàn phá môi trường sinh sống và nỗi bình yên của chúng. Tôi cho rằng đây là một trong những điều đáng giá để suy nghĩ, trong mục đích cứu vãn Huế.

Tôi rất thích đi bộ thong thả dọc theo đường Ngô Quyền, con đường nhỏ yên tĩnh qua trước cổng trường Đại học Y bao giờ cũng thấy loáng thoáng bóng áo trắng của người thầy thuốc, và vào bất cứ giờ nào trong ngày, dưới tầng lá khép kín của hai hàng phượng, con đường vẫn râm mát như đi qua dưới một mái nhà. Và bao giờ cũng thế, tôi vẫn gặp lại chúng, những con chim sẻ nhảy nhót, đùa chơi trên mặt đường, rất dạn người, chỉ khẽ nhảy tránh khi bước chân tôi ngang qua. Vẻ vô tư của chúng làm tôi xúc động lạ thường: hình như tuổi - chim sẻ của tôi vẫn còn lại đâu đó, đang mê mải đánh bi bên vệ đường; tôi nhìn thấy nơi những chú chim nhỏ kia cái mà ký ức mùa tựu trường của Anatole France gọi là "bóng dáng của tôi hai mươi lăm năm về trước”.

Vào khoảng giữa buổi sáng vẫn thường có một bầy sẻ năm bảy con ở đâu bay đến kiếm ăn nơi hành lang trước cửa sổ nhà tôi, ở đó tôi đã vãi một nhúm gạo nhỏ dành sẵn cho chúng; lân la quen dần đến nỗi chúng vào hẳn trong nhà, quanh quẩn ngay chỗ tôi ngồi làm việc. Thế rồi một hôm đang mải viết thình lình tôi nghe một tiếng "đoàng" vang lên nơi vòm lá cây long não trước hành lang, bầy chim sẻ đang nhặt gạo gần đấy cất cánh bay vù đi như những bóng nắng. Nhìn xuống đường, tôi thấy một gã du đãng đang vác súng bắn chim lững thững bỏ đi. Lũ trẻ con nhặt mang lên cho tôi xem chiến lợi phẩm của gã để lại dưới gốc cây long não, một con chim én lạc lõng nào đã bị bắn chết, mấy giọt máu rỉ ra trên cái ức đen xanh của nó. Điều đáng buồn là từ hôm có tiếng súng nổ, bầy chim sẻ đã không trở lại trước cửa sổ phòng tôi nữa, chuyện vừa mới xảy ra trong mùa xuân vừa qua. Mong sao lũ chim nhỏ đáng yêu của tôi đừng giữ một kỷ niệm xấu về tôi, rằng chính tôi đã giăng sẵn một cái bẫy để định giết chúng.

Nói đúng ra, những năm sau này tôi vẫn còn niềm vui đứng lại bên đường ngắm chim anh vũ bay về. Đó là loài chim keo nhỏ, lông rất đẹp, từ vùng núi về Thành phố vào mùa trái gội chín, thường là vào thời kỳ từ lễ Vu lan đến trước Tết Nguyên Đán. Đàn anh vũ sà xuống những cây gội, và bắt đầu ngắm vũ bộ tuyệt vời của chúng: từng con bước đĩnh đạc dọc theo cành cây đến tận mút cành, xoay nửa vòng nằm ngửa mặt lên trời, chỉ giữ mình bằng hai chân níu cành theo thế đánh đu, và cứ thế nhấp nháp những trái gội chín đỏ. Ăn xong, chim anh vũ buông mình rơi tự do trong không và thoắt một cái, tung cánh bay ngược lên, cả đàn chim như một trận lá bốc lên trong gió, đẹp mê hồn. Thế rồi một lần, tai họa đã đến với chúng, ngay trước mắt tôi. Dưới cây gội đầu đường, một gã cần chất đạm nào đó chợt hiện ra, giương súng săn lia đạn vào đàn chim; chúng hoảng hốt bay tạt sang đường Trương Định nơi có khu tập thể của sở Thể Dục Thể Thao. Thật bất hạnh cho chúng, một gã xạ thủ khác chừng đã phục sẵn lại xả đạn vào bầy chim. Lũ anh vũ hoảng loạn mất phương hướng cứ thế bay lui bay tới giữa hai làn đạn, rơi lả tả xuống mặt đường như khế rụng. Trời ơi! Ước chi có một luật pháp nào của nền văn minh cho tôi quyền tước súng của hai kẻ dã man, và chính tôi sẽ đưa họ ra tòa về tội tàn sát thiên nhiên. Nhưng mà tôi bất lực. Sau cuộc thảm sát lần ấy, ba năm qua mùa thu nào tôi cũng trở lại chốn cũ thử xem: trái gội vẫn chín đỏ trên cành, nhưng giống như bầy sẻ nhà tôi, chim anh vũ không về nữa. Có lẽ đó là đàn anh vũ cuối cùng đã bỏ Huế mà đi.

Có lần tôi đến thăm Schwerin, một tỉnh có thiên nhiên rất đẹp của nước Đức, được du khách gọi là "Thành phố Đồi và Hồ". Mùa đông, Schwerin có hai loài chim đã trở thành bạn thân của con người: Chim nhạn và thiên nga. Cứ vào giờ ăn, bên ngoài cửa kính khách sạn lại xập xòa những chú chim nhạn bầu bĩnh với bộ lông mịn xốp màu xám tro. Tôi phải mở cửa tặng cho chúng một nắm vụn bánh mì, chúng mổ ăn ngay trong lòng bàn tay tôi, ăn xong vẫn đậu yên trên bậu cửa sổ, rất lịch sự, để chờ nhận được quà tiếp theo. Thiên nga thì đông đảo ở ven các hồ, thậm chí trên các lối đi qua công viên, người ta phải cắm những bảng hiệu giao thông vẽ hình một con chim nhỏ, lưu ý người đi dạo cẩn thận để khỏi dẫm phải những thiên nga con đang lẫm chẫm theo mẹ, tìm ăn những quả dâu đỏ kết thành chuỗi dài buông xuống sát mặt tuyết. Giống như những đứa trẻ bán vé số trong các quán ăn ở ta, cứ hễ thấy người lạ vừa đến ngồi nơi ghế đá là mẹ con thiên nga dắt nhau tới đòi ăn, và du khách nào cũng có sẵn trong túi mấy gói thức ăn bán sẵn trong công viên để làm quà cho chim, chim nhạn sinh sống ngay trong thành phố nhưng đến mùa sinh đẻ lại bay đi làm tổ ở một vùng thung lũng khác; còn thiên nga chỉ là kiều dân nhưng mùa đông lại về thành phố này để đẻ trứng ấp con. Vì thế cứ đến đầu mùa đông, người dân Schwerin lại tự đề ra thêm bổn phận gia đình phải lo cho chúng, bằng cách đóng những chiếc chuồng bằng gỗ giúp thiên nga trú đông. Quanh các bờ hồ Schwerin những căn nhà gỗ xinh xắn, đủ kiểu màu xếp cạnh nhau rất đẹp mắt, giống như những khách sạn phục vụ không tiền dành sẵn cho những gia đình chim. Ôi người dân Schwerin đã biết đối xử với thiên nhiên một cách có văn hóa như thế, mặc dù tôi đang thăm chơi ở một thành phố nhỏ của nước Đức, đang tiếp tục xây cất, và chưa bao giờ được UNESCO xếp hạng là "di sản văn hóa chung của nhân loại" giống như Huế của tôi.

Tôi có nói rằng thành phố Huế mang một giai điệu tâm hồn riêng, hài hòa tươi sáng như thiên nhiên quả là hơi thở của thiên nhiên, và có lẽ là một cái gì đó thuộc về âm nhạc của MOZART. Thế nhưng bây giờ, suốt một con đường đẹp nhất Huế là đường Lê-Lợi, cứ cách năm bảy chục mét lại mọc lên một điểm viđêô hoặc là một quán nước, từ đó dấy lên tiếng ồn của nhạc disco và nhiêu thứ rền rĩ tái bản của Sài Gòn mấy chục năm về trước: thời đó báo chí miền Nam đã chửi là: "Nhạc mari sến”. Lưu ý rằng đường Lê-Lợi chỉ toàn là cơ quan Nhà nước. Và chính đó là "giai điệu mới" đang chiếm lĩnh thành phố Huế. Chao ôi! Âm nhạc mà đến thế thì cả MOZART cũng phải bỏ đi huống chi là chim! Chợt nhớ lại một câu văn bia của lăng Tự Đức, đại thể: "Ta trồng nơi đây thật nhiều cây để gọi chim về, chim nào thấy vui thì cứ đến ở". Lại lưu ý rằng đây là văn bản được xem là thiêng liêng khắc trên đá hoa cương trước mộ của một trong những ông vua quyền lực nhất của nhà Nguyễn. Dù tàn bạo khét tiếng trong nghề đàn áp, hóa ra trong nghệ thuật kiến trúc của kinh thành Huế, Tự Đức lại là một nhà nhân đạo chủ nghĩa đi trước thời đại của ông biết bao nhiêu.

Dù sao, vẫn còn một cố gắng đơn độc nhằm bảo vệ loài chim ở Huế, nơi Hội những người Nuôi chim, vừa thành lập cách đây hai năm. Buổi lễ ra mắt thật là long trọng, có cả quốc kỳ, khẩu hiệu đỏ và diễn văn yêu cầu "Lãnh đạo quan tâm"; một vị cán bộ hưu trí vừa nhập hội ngồi cạnh tôi lấy thế làm khó chịu, nói càu nhàu: "Chẳng lẽ bây giờ người ta lại còn yêu cầu lãnh đạo luôn cả chim nữa à?" Câu phàn nàn của ông làm tôi bật cười. Nhưng chợt nghĩ lại nhiều điều trên mảnh đất cố đô này, tôi trả lời ông rất nghiêm chỉnh:

- Nhiều khi cũng đúng như thế thật. Cả vua Tự Đức cũng không coi việc chim là việc nhỏ. Chẳng thế mà người ta lại nói: "Đất lành chim đậu".

Huế, tháng 6 năm 1990
H.P.N.T.
(TCSH44/01-1991)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách