Thành phố lớn - những vấn đề đặt ra

14:35 25/02/2014

TRÊN TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG THỪA THIÊN HUẾ TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

LÊ VĂN LÂN

Thành phố Huế - Ảnh: internet

Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương là điều cả tỉnh đang quyết tâm phấn đấu. Đất rộng người thưa, thành phố lớn có nhiều thuận lợi để xây dựng một đô thị mở, một thành phố sinh thái, một thành phố văn hóa, một thiên đường nghỉ dưỡng của đất nước. Có thể nói những “mĩ từ” của một đô thị hiện đại Huế đều có điều kiện thực hiện. Vấn đề đặt ra là thành phố lớn phát triển như thế nào trong điều kiện nguồn lực có hạn, phát triển như thế nào để không “nóng”, đô thị càng phát triển, chất lượng sống của người dân ngày càng được nâng cao. Huế phải luôn luôn mới, ngày càng thu hút và hấp dẫn du khách, mới là điều đáng nói. Đây là những vấn đề cần được nhìn nhận một cách khách quan và khoa học, phải được đặt lên bàn các nhà lãnh đạo, phải huy động trí tuệ của các nhà khoa học, các nhân sĩ trí thức, các nhà văn hóa và người dân vào cuộc. Nói chung, đô thị không thể phát triển theo kiểu cũ mà phải bằng một tầm nhìn mới.

Từ thành phố cũ…

Manh nha thành phố lớn khởi đầu từ thành phố cũ. Thành phố cũ là thành phố hiện nay với một quỹ kiến trúc vô giá, từ kiến trúc cung điện đền đài lăng tẩm, những phố cổ, chùa chiền - nhà thờ… tất cả hòa quyện cùng sông Hương, núi Ngự, đồi Vọng Cảnh, Thiên An theo một tỉ lệ vàng mà nhiều chuyên gia đánh giá. Mọi người ngày càng nhận ra rằng thành phố lớn hấp dẫn trước hết là ổn định đô thị cổ này. Đây cũng chính là điều gây nhiều tranh cãi trong thời gian qua trong phát triển đô thị ở Huế. Người ta lo ngại không gian đô thị cũ bị phá vỡ, nhiều giá trị của đô thị cũ sẽ ngày càng mai một bởi sự phát triển tự phát.

Tất nhiên, để ổn định đô thị cũ không phải là điều dễ dàng, phải giải quyết hàng loạt các vấn đề do hậu quả của chiến tranh cũng như của phát triển đô thị mang lại. Trước hết và hàng đầu đối với đô thị cũ là vấn đề thoát nước và xử lý nước thải. Một thành phố vàng nhưng mới mưa đã lụt là điều không thể chấp nhận được, thành phố trở nên nhếch nhác làm phai mờ hình ảnh Huế trong con mắt của du khách. Trong lúc đó, Huế có điều kiện trong xử lý thoát nước bởi sông ngòi chằng chịt, triều cường không ảnh hưởng… Chỉ cần một vài trục thoát nước lớn và khơi thông các dòng sông là có thể giải quyết tình hình này. Thực tế cho thấy thời gian qua tỉnh và thành phố đang trông chờ những dự án lớn, tất nhiên nhưng dự án lớn là cần thiết nhưng những gì trong tầm tay là phải tính toán, hình ảnh những lô cốt ở thành phố Hồ Chí Minh là bài học đắt giá nếu chúng ta không muốn đi vào bánh xe cũ (xử lý rất phức tạp và tốn kém). Có thể nói thoát nước là vấn đề ưu tiên hàng đầu đối với đô thị cũ sau đó mới tính đến việc xử lý nước thải. Chậm chân ngày nào trả giá càng lớn chừng đó.

Vấn đề còn lại là phải giãn dân, giãn dân bảo đảm cho sự ổn định của đô thị cũ. Để giãn dân được đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, có định hướng rõ ràng trong phát triển kinh tế xã hội, có những chính sách cụ thể. Ngay ở 4 phường Nội thành việc giãn dân đã được đặt ra từ lâu, các cơ sở sản xuất được di dời, dân cư ở các khu di tích được giải tỏa, diện tích đất ở được quy định nghiêm ngặt, nhà ở không quá 2 tầng… nhưng thực tế dân cư ở đây không giảm mà còn gia tăng. Giãn dân làm sao được khi ở đây nhà vườn biến thành nhà ống, nhà phố, trở thành những phố đồ bành, phố xe bãi nhếch nhác… Trong một phạm vi hẹp như vậy mà đã có đến 3 trường cấp 3, 3 cơ sở đại học. Khu vực Thành nội lẽ ra nên mở rộng các phố đi bộ thì chiều hướng diễn ra ngược lại, ngay cả việc cấm xe có trọng tải lớn hoạt động cũng không giải quyết nổi.

Đô thị trung tâm

Thấy rõ tầm quan trọng và giá trị to lớn từ ổn định đô thị cổ, Kết luận 48 của Bộ Chính trị nhấn mạnh đến diện mạo của đô thị trung tâm. Đô thị trung tâm được đặt ra trong tầm nhìn mới, thông thoáng hơn gồm Huế - Bình Điền - Tứ Hạ - Thuận An - Phú Bài. Xác định này sẽ giải tỏa nhiều áp lực lên đô thị cổ, tạo nên sự chuyển dịch đô thị theo chiều hướng hình thành các cực phát triển ở đô thị trung tâm mà mỗi cực là những trung tâm đô thị mới. Những trung tâm đô thị mới sẽ là những đô thị mở về du lịch, dịch vụ, đại học, tài chính… Những trung tâm đô thị mới có thể ban đầu còn manh mún, nhưng là manh mún trong một trật tự, những người đi sau còn tiếp tục phát triển theo nhu cầu của thời đại mình tạo nên một sự hoàn chỉnh. Lý lẽ này càng lúc càng rõ ràng nhưng chưa được những nhà hoạch định bàn thảo một cách nghiêm túc, khoa học.

Đô thị trung tâm sẽ phát triển như thế nào? Có lẽ đây là vấn đề chưa được thảo luận rạch ròi và ngày càng bối rối trước đòi hỏi của tình hình và trong chừng mực nào là sự nôn nóng. Đối với đô thị cũ ưu tiên là hệ thống thoát nước và xử lý nước thải, là giãn dân. Những trung tâm đô thị mới là phải hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Hạ tầng ở đây không chỉ mở đường mà cả hệ thống thoát nước và xử lý nước thải, ngầm hóa hệ thống đường điện, hệ thống giao thông công cộng, hệ thống giao thông tĩnh, hệ thống cấp nước sạch, cấp hơi đốt… Tất nhiên với nguồn lực như hiện nay, không thể tiến hành ngay một lúc mà phải có lộ trình, có bước đi phù hợp để những bước đi sau không phá vỡ cái đi trước và bó tay trước việc đền bù giải tỏa.

Việc phát triển đô thị hiện nay trên cả nước vẫn là mở đường, chia lô, vẫn theo phương châm “đổi đất lấy hạ tầng”. Đường phố vừa làm xong đã trở nên chật chội, đường phố bị rào kín bởi nhà phân lô hai bên. Mật độ dân số không cao nhưng ở đâu cũng thiếu sự thông thoáng, vẫn bế tắc trong tình trạng mới mưa đã ngập. Nhìn chung đô thị nào cũng na ná như nhau, cũng trong xu thế phát triển “nóng”. Đối với Huế có lẽ phương châm này lại càng không phù hợp. Có người cho rằng đối với đô thị trung tâm việc phát triển đô thị nên theo hướng chuyển dịch đô thị nên theo các cực, với phương châm đổi “cơ quan lấy cơ quan” để hình thành những trung tâm đô thị mới. (Phương châm này lâu nay cũng đã làm nhưng chỉ luẩn quẩn chung quanh đô thị cũ thiếu sự định hướng rõ rệt). Tất nhiên trong điều kiện nguồn lực có hạn thì tốc độ phát triển có thể bị chậm lại, nhưng chậm mà vững chắc, bảo đảm tính bền vững. Bộ mặt đô thị sẽ ngổn ngang, nhưng ngổn ngang theo xu hướng đi dần vào trật tự, ngổn ngang của một đô thị văn hóa, sinh thái trong tương lai.

Vấn đề hàng đầu hiện nay đối với đô thị trung tâm là công tác quy hoạch. Quy hoạch đô thị trung tâm không phải là một bài toán cộng gồm quy hoạch thành phố cộng với quy hoạch Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang. Bài toán cộng như vậy dễ dẫn tới rối loạn quy hoạch, không thể mạnh ai nấy làm thiếu sự kết nối và đồng bộ. Đô thị trung tâm là một đô thị đa cực, ví dụ ở phía đông thành phố từ khu nước nóng Mỹ An đến thị trấn Thuận An có thể hình thành một trung tâm đô thị dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng chất lượng cao, trung tâm hội nghị quốc tế, trung tâm mua sắm. Phía Nam Huế là trung tâm đại học, khu công nghiệp phần mềm, các trung tâm nghiên cứu, các cơ sở đào tạo công nghệ kỹ thuật cao… Dành một quỹ đất thích đáng cho giao thông, hệ thống giao thông tĩnh cũng như không gian dự trù cho phát triển sau này, trước mắt xây dựng các công viên trồng cỏ, về tương lai đây là những mảnh đất vàng, nếu không là một sự nhếch nhác. Tất nhiên một quy hoạch tốt là một quy hoạch được người dân đồng thuận hưởng ứng, người dân tham gia vào quá trình xây dựng quy hoạch cũng như đóng góp công sức của mình thực hiện quy hoạch. Đời sống kinh tế người dân tăng lên nhờ chính sách thu hồi đất, mặt khác quy hoạch cũng bảo đảm cho người dân có đời sống khá hơn khi tham gia thực hiện quy hoạch, có nhiều cơ hội hơn trong tìm kiếm việc làm, phát triển sản xuất dịch vụ.

Vùng ven đô

Xác định đô thị trung tâm cũng chính là xác định vùng ven đô. Vùng ven đô là nơi vừa có các đặc trưng của nông nghiệp nông thôn vừa có các hoạt động mang tính chất đô thị. Vùng ven đô không tồn tại độc lập mà nằm trong một miền liên thông nông thôn - ven đô - đô thị. Ven đô là nơi cung cấp thường xuyên lâu dài lương thực thực phẩm, nguồn nguyên liệu và lao động cho đô thị, và ngược lại đô thị tạo ra thị trường tiêu thụ, tạo cơ hội việc làm và nơi ở cho người dân từ nông thôn đến thành thị, hạn chế sự di động nhân lực từ nông thôn và nội thị.

Ngày mới giải phóng, khi nói đến vùng ven đô người ta thường nghĩ đến vành đai xanh thành phố. Điều này đến nay vẫn còn nguyên giá trị nhưng tiếc rằng chúng ta chưa suy nghĩ nhiều về nó. Vùng ven đô phải là nơi cung cấp rau sạch, gạo ngon, hoa, sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho đô thị trung tâm. Nói chung là đặc sản về thực phẩm sạch cho Huế. Về chợ đầu mối và các chợ trong thành phố hàm lượng nông sản và đặc sản sạch của Huế còn rất khiêm tốn trong khi nhu cầu thì rất lớn. Vừa qua chúng ta đã triển khai nơi này trồng hoa, nơi kia trồng rau sạch, nơi nọ nuôi thú rừng… nhưng nhìn chung còn đang tản mát và tự phát, còn mang tính tự cung tự cấp, chưa trở thành hàng hóa. Mặt khác, vùng ven đô cũng là nơi phát triển các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này cho thấy, nếu nghiên cứu kỹ và tổ chức tốt việc phát triển kinh tế xã hội vùng ven đô, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực sẽ làm cho hoạt động kinh tế ở đây trở nên sôi động và trong chừng mực nào đó là một điểm đến hấp dẫn của du khách.

L.V.L
(SH300/02-14)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.