Thanh Hải - “Một nốt trầm xao xuyến”

14:54 10/02/2010
Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.

Nhà thơ Thanh Hải - Ảnh: lucbat.com

Những năm kháng chiến chống Pháp, Thanh Hải công tác ở đoàn văn công. Những năm chống Mỹ, anh tiếp tục làm công tác văn hoá - tuyên huấn ở chiến khu Trị Thiên. Sau 1975, Thanh Hải từng làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Uỷ viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Anh đã xuất bản các tập thơ: Những đồng chí trung kiên (1962); Huế mùa xuân (tập 1 năm 1970, tập 2 năm 1975); Dấu võng Trường Sơn (1977); Mùa xuân đất này (1982); Thanh Hải thơ tuyển (1982). Anh được Hội Văn nghệ Giải phóng trao Giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965 và được Chính phủ truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, đợt 1, năm 2001.


MAI VĂN HOAN


Thanh Hải - “Một nốt trầm xao xuyến”


Từ những năm 1960 đến 1965 hầu như những người yêu thơ ở miền Bắc ai cũng biết và thuộc lòng một số bài thơ “vượt tuyến” của nhà thơ Thanh Hải. Cùng với Giang , Thanh Hải là một hiện tượng thơ rất được chú ý lúc bấy giờ. Nếu Giang nổi tiếng với bài thơ Quê hương thì Thanh Hải được mọi người biết đến với bài Mồ anh hoa nơ. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Thanh Hải vẫn một lòng kiên trung với cách mạng, chung thuỷ với thơ ca.

Thơ Thanh Hải chân chất, bình dị, đôn hậu như con người của anh. Hầu hết thơ anh là thơ “trữ tình công dân”. Thanh Hải tiếp nối mạch nguồn thơ ca cách mạng của Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu… Sau hiệp nghị Giơ ne vơ, anh được giao nhiệm vụ ở lại miền Nam, sát cánh với nhân dân Trị Thiên Huế gây dựng phong trào, tổ chức đấu tranh đòi thống nhất đất nước. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến những cuộc đàn áp vô cùng dã man của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với những người bị chúng tình nghi là “Cộng sản”: Hôm qua chúng giết anh/ Xác phơi đầu ngõ xóm. Bọn chúng “trừng mắt” ra lệnh: Thằng này là Cộng sản/ Không được đứa nào chôn! Nhưng bất chấp lời đe doạ của chúng, nhân dân vẫn chôn cất những chiến sĩ Cộng sản hết sức chu đáo: Lũ chúng vừa quay lưng/ Chiếc quan tài sơn son/ Đã đưa anh về mộ/ Đi theo sau hồn anh/ Cả làng quê, đường phố/ Cả lớn nhỏ gái trai/ Đám càng đi càng dài/ Càng dài càng đông mãi… Đó là những câu thơ trong bài Mồ anh hoa nở mà tôi đã học thuộc lòng khi còn là một cậu học trò lớp sáu trường làng. Những câu thơ dung dị ấy cứ đi thẳng vào lòng người, chẳng cần hoa hoè, hoa sói. Trải qua mưa nắng thời gian những bông hồng trên mộ người Cộng sản vẫn toả hương ngào ngạt. Bởi đó là những bông hồng nở từ máu của các chiến sĩ cách mạng đã hy sinh vì sự nghiệp thống nhất đất nước. Hình ảnh: Bông hồng đỏ và đỏ/ Như máu nở thành hoa là một hình ảnh hết sức ấn tượng, hết sức ý nghĩa mà không phải bất cứ nhà thơ nào cũng có thể viết được.

Cũng vào thời còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi đã thuộc lòng những câu thơ viết về Bác của Thanh Hải: Đêm nay bên bến Ô Lâu/ Cháu ngồi cháu nhớ chòm râu Bác Hồ… Càng nhìn càng lại ngẩn ngơ/ Ôm hôn ảnh Bác mà ngờ Bác hôn. Những câu thơ này đã đi vào tâm thức của nhiều thế hệ người Việt . Nó tồn tại như những câu ca dao lưu truyền trong dân gian. Nhà thơ Thanh Hải kể rằng khi anh đọc bài thơ Cháu nhớ Bác Ho cho Bác nghe, đến câu Ôm hôn ảnh Bác mà ngờ Bác hôn, quá xúc động, anh dừng lại giữa chừng. Bác bèn ôm lấy anh, vừa hôn vừa nói: “Đây, hôm nay Bác hôn thật đây!”. Đó là một kỷ niệm không bao giờ quên trong cuộc đời làm thơ của anh. Vào ngày 19/10/1962, đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu ra thăm miền Bắc đặt chân đến Hữu Nghị quan. Trong đoàn có cả nhà thơ Thanh Hải. Anh phải lặn lội từ Trị Thiên vào tận Tây Ninh, qua Căm pu chia, bay sang Trung Quốc rồi đi tàu về biên giới Lạng Sơn. Nhà thơ nghẹn ngào: Cách nhau chỉ một mái chèo/ Mà đi trăm núi, vạn đèo đến đây! Khi nghe nghệ sĩ Trần Thị Tuyết ngâm bài Tám năm nay mới gặp nhau của anh trong chương trình Tiếng thơ, Đài Tiếng nói Việt , rất nhiều người đã không cầm được nước mắt. Bao nhiêu vui sướng, bao nhiêu hờn tủi, bao nhiêu căm giận... chất chứa trong hai câu thơ giản dị này. Thời đó, Trị Thiên và Quảng Bình đều là những tỉnh ở “tuyến đầu Tổ quốc” nên tình cảm hết sức keo sơn, gắn bó. Thanh Hải đã thay mặt đồng bào Trị Thiên bày tỏ tình cảm sâu nặng ấy với nhân dân Quảng Bình qua những vần thơ rất đỗi chân thành: Quảng Bình ơi, chín năm xưa đánh giặc/ Vui khổ cùng chung mảnh đất miền Trung/ Xa cách mười năm, mười năm thầm nhắc/ Lòng hẹn lòng qua đôi bến Hiền Lương…


Thanh Hải có bài thơ Sang đò đêm mưa khá cảm động viết về mối quan hệ tình cảm sâu nặng giữa đồng bào miền với các chiến sĩ cách mạng nằm vùng (thời 1954 - 1965). Người lái đò cho các chiến sĩ bí mật qua sông ngay cạnh đồn bốt của địch là một mẹ già. Hôm ấy trời mưa rất to. Tác giả băn khoăn không hiểu sao mẹ cứ cho đò trôi “lơ lửng, lửng lơ” trên sông làm “ướt cả thân già” mà không cập bến. Má rằng: con ở trong mui/ Cứ ngồi cho ấm để rồi lại đi/ Má ướt một bữa can chi/ Chỉ lo con ướt lấy gì mà hơ. Người chiến sĩ thì thương trời mưa làm “ướt cả thân má”. Mẹ thì lo để các anh lên bờ trong khi trời đang mưa “lấy gì mà hơ”. Bởi: Bên kia những bụi cùng bờ/ Không tơi, không nón đụt nhờ vào đâu? Phải máu mủ ruột thịt mới quan tâm, lo lắng đến nhau như thế. Chỉ một từ “đụt” cũng đủ cho người đọc biết quê hương, bản quán của mẹ. “Đụt” là từ địa phương có nghĩa là trú ẩn. Lời thơ bình dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Phải chờ đến khi trời tạnh mưa, mẹ mới đưa đò vào bến. Khi buộc con đò, “vì dầm mưa lạnh má ho từng hồi”. Tiếng ho của mẹ làm tác giả tràn đầy thương cảm: Má ơi! Đi đã xa rồi/ Mà con vẫn mãi nhìn lui bến đò/ Vẫn còn vọng mãi tiếng ho/ Mỗi khi vượt bốt sang đò đêm mưa…

Tôi tin là những lời thơ bình dị này của Thanh Hải “vẫn còn vọng mãi” cùng năm tháng.

Khoảng thời gian từ 1965 đến 1975 Thanh Hải hoà lẫn vào trong dòng thơ chung, hoà lẫn vào bản anh hùng ca chống Mỹ cứu nước vô cùng sôi nổi, vô cùng hào hứng. Bên cạnh thế hệ làm thơ trước cách mạng như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư… thế hệ trẻ đầy tài hoa như Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Phạm Ngọc Cảnh, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Nhuận Cầm, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Duy… Thanh Hải vẫn “lặng lẽ” làm “một nốt trầm” góp vào bản “hoà ca” bằng tập thơ: Huế mùa xuân. Sau 1975, anh vẫn trăn trở với đề tài chiến tranh. Tập thơ Dấu võng Trường Sơn (1977) ghi lại cảm xúc của anh về những năm tháng “không thể nào quên” ấy. Từ 1978, thơ anh bắt đầu chuyển sang những tâm sự đời thường. Tôi nhớ mãi buổi nói chuyện của anh với các em học sinh chuyên văn Hai Bà Trưng Huế. Cuối buổi nói chuyện, anh đọc cho thầy trò chúng tôi nghe những bài thơ mới viết của anh. Giọng anh nhỏ nhẹ, trầm lắng. Anh sẻ chia với cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả của những người lính vừa đi qua chiến tranh, của những người dân lao động: Mùa đông còn se lạnh/ Áo chưa đủ hai mùa/ Cơm mỳ với canh chua/ Sốt rét rừng chưa dứt… (Xa em giữa mùa mưa lũ); Lúc hạn hán, lúc mưa rào/ Lúc úng, lúc bão, lúc đào mương phai… (Ngủ đêm ở hợp tác xã). Tiếc là vào đúng thời điểm này anh lại bị căn bệnh ung thư cổ trướng hành hạ.

Mặc dù thế, trước khi mất, Thanh Hải vẫn kịp để lại cho đời bài thơ Mùa xuân nho nhỏ viết vào những ngày cuối cùng trên giường bệnh. Thông qua Mùa xuân nho nhỏ tác giả bày tỏ khát vọng dâng hiến tài năng và sức lực của mình cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc, trở thành một trong những ca khúc quen thuộc, thân thiết cứ mỗi độ xuân về. Màu sắc trong bức tranh xuân của Thanh Hải hết sức dịu dàng. Màu xanh của dòng sông làm nền cho màu tím của bông hoa. Màu tím vốn là màu đặc trưng của Huế. Chọn bông hoa tím để tả mùa xuân, phải chăng nhà thơ muốn ca ngợi vẻ đẹp riêng của quê hương mình, xứ sở mình? Mùa xuân không chỉ được thể hiện qua màu sắc mà còn được thể hiện qua âm thanh: Ơi, con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời? Nhà thơ hỏi chim chiền chiện hay đang hỏi chính cõi lòng rạo rực của mình? Tiếng chim hóa thành “những giọt long lanh” chẳng khác gì những viên ngọc. Nhà thơ hứng tiếng chim với tất cả niềm sung sướng hạnh phúc. Đó là niềm vui trước mùa xuân mới, cuộc sống mới.

Thanh Hải miêu tả không khí khẩn trương, sôi nổi, hồ hởi của đất nước vào xuân: Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao… “Lộc giắt đầy quanh lưng”, và “lộc trải dài nương mạ” càng làm tăng thêm sức sống mãnh liệt của mùa xuân, của đất nước. Nhịp thơ nhanh, gấp gáp đã thể hiện phần nào không khí khẩn trương, sôi nổi ấy. Đang háo hức, sôi nổi… tác giả đột ngột hạ giọng: Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời/ Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc… Trong mùa xuân chung, Thanh Hải chỉ xin làm “một mùa xuân nho nhỏ”. Nhưng chính “mùa xuân nho nhỏ” đã góp phần làm nên mùa xuân đất nước. “Mùa xuân nho nhỏ” là những bông hoa, những con ong lặng lẽ dâng cho cuộc đời hương sắc của mình, mật ngọt của mình. Một sự hiến dâng “lặng lẽ”, không phô trương. Đức tính ấy là đức tính quý báu của con người Việt “biết hi sinh nên chẳng nhiều lời”, là đức tính của những người mẹ “nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng”. Từ mùa xuân quê hương tác giả liên tưởng đến mùa xuân đất nước, từ mùa xuân mọi người tác giả nghĩ đến “mùa xuân nho nhỏ” của mình. Bài thơ kết thúc trong niềm vui hòa nhập: quê hương, đất nước, riêng - chung: Mùa xuân - ta xin hát/ Câu ai, bình/ Nước non ngàn dặm mình/ Nước non ngàn dặm tình/ Nhịp phách tiền đất Huế”. Mùa xuân nho nhỏ không chỉ là một trong những bài thơ hay của Thanh Hải, mà còn là một trong những bài thơ hay viết về mùa xuân của thơ ca đương đại.

Trong bản “hoà ca” chung của thơ Việt , Thanh Hải tự nhận mình chỉ là một “nốt trầm”. Nhưng cái “nốt trầm” ấy đã làm “xao xuyến” bao nhiêu trái tim bạn đọc. Nhà thơ đã hiến dâng tất cả cuộc đời mình cho nhân dân, cho cách mạng, cho đất nước. Nhớ về anh là tôi nhớ về một con người có nụ cười hiền lành, có đức kiên trung, lòng lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống. Nhà thơ ra đi mới đó mà đã gần ba mươi năm. Trên lăng mộ khiêm nhường của anh ở nghĩa trang Phan Bội Châu, thành phố Huế, ngày ngày:

Hoa hồng nở và nở
Hương thơm bay và bay…

M.V.H
(252/02-2010)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của PGS.TS. Võ Văn Nhơn, văn chương phương Nam giữ vị trí trung tâm và nổi bật.

  • “Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng”1. Hành trình sáng tác của Han Kang là sự kết nối những câu hỏi và là “suy ngẫm về những câu hỏi”.

  • Hồ Minh Tâm sinh năm 1966 tại Quảng Bình. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Đà Nẵng năm 1990, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998; làm việc trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, tư vấn thiết kế, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

  • Trong một bài viết mấy năm trước, tôi dẫn câu “số phận chứa một phần lịch sử” và tưởng rằng sự đúc kết rất đáng suy ngẫm này là của nhà văn - đạo diễn Đặng Nhật Minh. Hóa ra tôi đã nhầm.

  • Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

  • Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.

  • Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?

  • Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...

  • Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.

  • Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên). 

  • (Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).

  • Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.

  • Lê Minh Phong (sinh 1985) vốn cùng quê với Huy Cận, nhưng xa hơn về phía núi. Cả hai đều có một tâm hồn cổ sơ. Nét hoang dã của vùng đất ấy đã tạo ra ngọn Lửa thiêng trong thơ Huy Cận, tạo nên những huyền thoại, cổ tích trong văn xuôi Lê Minh Phong.

  • (Đọc tập tiểu luận “Ngắn dần đều” của Hoàng Đăng Khoa, Nxb. Đà Nẵng và Book Hunter, 2024)

  • YẾN THANH

    Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • VÕ QUỐC VIỆT (Đọc “Đất Việt trời Nam liệt truyện” của Trần Bảo Định)

  • Tập thơ Vực trắng, Nxb. Hội Nhà văn quý 2/2024 của nhà thơ, nhà báo Lữ Mai gồm 55 bài thơ, được sắp xếp thành 6 phần: “Từ núi”, “Đi lạc”, “Nói bằng gai sắc”, “Trở về chạng vạng”, “Gửi Huế”, “Cánh tàn bừng giấc”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Lê Quang Sinh sáng tác thơ và trở thành nhà thơ được độc giả cả nước yêu quý và đón nhận nồng nhiệt. Nhưng ít ai biết Lê Quang Sinh là nhà phê bình thơ có uy tín với mỹ cảm tiếp nhận bất ngờ qua từng trang viết đồng sáng tạo tài hoa của anh.

  • PHONG LÊ

    Hải Triều, đó là một tên tuổi quan trọng trong sinh hoạt văn chương - học thuật thời kỳ 1930 - 1945. Ông vừa giống vừa khác với thế hệ những đồng nghiệp cùng thời, nếu xét trên phạm vi các mối quan tâm về học thuật.