Thấm đẫm chất đời

15:03 14/10/2019

“Văn Nguyễn Minh Châu cho thấy nhiều hành trình, nhưng hành trình khiến tôi nhớ nhất là từ “Dấu chân người lính” (1972) đến “Lửa từ những ngôi nhà” (1977), vắt ngang thời điểm 1975, từ chiến tranh về hòa bình, từ chiến trường về hậu phương, nhưng là một hậu phương vẫn tiếp tục là chiến trường trong đời thường không khói súng. Có thể nói chất đời tràn trề, thấm đẫm trong văn Nguyễn Minh Châu” - GS. Phong Lê chia sẻ tại hội thảo “Nguyễn Minh Châu và tiến trình đổi mới văn học” nhân kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà văn.

Tinh thần đổi mới triệt để

Nguyễn Minh Châu vào nghề rồi trở thành người bạn tinh thần tin cậy của đông đảo bạn đọc vào quãng những năm 1960. Ở thời điểm ấy, nền văn học Việt Nam đã vượt qua một chặng đường dài như nhận xét của nhiều nhà văn “nó giống mạch nước qua bao ghềnh thác nay đã hóa thành sông, có dòng chảy ổn định”. Nguyễn Minh Châu đã thả con thuyền văn chương của ông xuôi theo cái dòng chảy đang có sức cuốn hút mạnh mẽ ấy.

GS.TS. Trần Đình Sử cho rằng, Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho tinh thần đổi mới triệt để văn học Việt Nam những năm 1980. Sau năm 1975, văn học Việt Nam trải qua một cuộc chuyển mình dữ dội, không chỉ từ văn học thời chiến sang thời bình, từ văn học sử thi sang văn học thế sự và đời tư, mà trong chiều sâu, nó chuyển từ văn học tuyên truyền, phản ánh hiện thực theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa sang một nền văn học hậu cách mạng, hậu hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó, Nguyễn Minh Châu đóng vai trò là một nhà văn tiên phong. Theo GS.TS. Trần Đình Sử, vai trò tiên phong của ông thể hiện ở trên 3 phương diện: Phát hiện vấn đề, thay đổi lý thuyết và thực tiễn sáng tác.

Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra 3 vấn đề chính xác: Một là hoài nghi về tính chân thực của văn học ta, do nhu cầu tuyên truyền mà tự tô hồng, che giấu bớt sự thật. Hai là ông phát hiện ra cái sai lầm trong phương pháp sáng tạo, đó là coi trọng cái thực tại cần phải có hơn cái thực tại vốn có. Cuối cùng, ông là người đầu tiên và duy nhất đọc lời ai điếu cho một nền văn nghệ minh họa, trong đó mô tả toàn bộ sự trói buộc, chật chội, của không gian mà trong đó nghệ sĩ sáng tạo, lên án sâu sắc chủ nghĩa giáo điều trong văn nghệ. 

Nghiên cứu của nhà phê bình Đỗ Hải Ninh cũng khẳng định, thời kỳ này, tác phẩm của Nguyễn Minh Châu “nổi sóng dư luận bởi tinh thần đối thoại với những tiếng nói tự vấn khác lạ, cho thấy ông đã dự cảm về một cuộc đổi mới văn chương sắp diễn ra”. Không ít bài viết của ông bày tỏ quan niệm văn chương bằng đối thoại với “Trang giấy trước đèn” hay “Viết về chiến tranh”… để rồi quyết liệt từ chối văn học minh họa với thái độ dứt khoát, thậm chí cực đoan một cách cần thiết trong “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”. “Mặc dù từng gặp phải không ít ý kiến chỉ trích, nhưng đến nay những quan điểm của ông về hạn chế của văn chương một thời, tư cách nghệ sĩ, vấn đề tự do sáng tác vẫn còn nguyên giá trị”, TS Đỗ Hải Ninh nhận định.

Khắc khoải về nhân sinh

GS. Phong Lê chia sẻ: “Tôi thường liên tưởng đến Nam Cao khi nhớ về Nguyễn Minh Châu. Trong cảm nhận của tôi, cả hai có điểm gì đó gần, ở chất văn trong văn và chất nghệ sĩ nơi người; ở niềm khắc khoải lớn về nhân sinh, về cõi đời. Còn là bởi cả hai, trong tính cách, trong lối sống cũng có một vẻ gì đó giống nhau: Lẳng lặng, ít nói mà nghĩ ngợi, quan sát thì nhiều. Có lúc nhút nhát, cả thẹn. Rất thâm sâu trong văn, nhưng thầm lặng ngoài đời”.

Trong thế giới của Nguyễn Minh Châu có một “ông đồ Nghệ” đứng tách riêng ra để nhìn vào thế giới những khách quê, những con người Nghệ. Cái con người đứng trầm ngâm và lặng lẽ quan sát đó không còn là “ông đồ Nghệ” cũ, khăn gói đi tha phương kiếm sống, hành nghề. Mà là một “ông đồ Nghệ - Thủ đô” tinh tế, hóm hỉnh, tài hoa, lịch sự, nhìn chăm chú vào cái thế giới “khách quê” đó, rồi nhìn vào chính mình, ẩn dấu một nụ cười hóm hỉnh và ngượng nghịu”. Với GS. Phong Lê, quả dường như có một thế giới chân dung người Nghệ, nơi văn Nguyễn Minh Châu được nhìn trong một vầng ánh sáng của phố xá, của đô thị, của Thủ đô, do vậy mà rõ nét hơn trong cả những mặt sáng và khuất tối của họ.

Những năm cuối thế kỷ XX, Nguyễn Minh Châu là một trong số người hiếm hoi “chạm được vào những vỉa quặng lớn của đời sống bằng các tác phẩm không chỉ là can đảm, là dũng cảm, mà còn là quyết liệt, trong một tầm đón xa về phía trước, và trong một nhận thức và đòi hỏi rất cao về mình và về nghề nghiệp của mình. Con người lúc nào cũng đau đáu một niềm ham mê ấy, một khao khát ấy - viết sao cho chạm được vào các tầng sâu, vào tận đáy sâu những sự thật, về quê hương, đất nước, dân tộc mình”, GS. Phong Lê nhận định.

Với quan niệm, “bước ra khỏi một cuộc chiến tranh cũng cần thiết phải có đầy đủ trí tuệ và nghị lực như bước vào một cuộc chiến tranh” (“Miền cháy”), Nguyễn Minh Châu đã rất có ý thức phải viết, phải sáng tạo từ một tâm thức khác. PGS. TS. Thái Phan Vàng Anh khẳng định, với các tác phẩm được viết ngay sau 1975, Nguyễn Minh Châu đã hướng ngòi bút đến những bỡ ngỡ, ngổn ngang của đất nước thời kỳ đầu hậu chiến vốn đầy thách thức. “Ẩn hiện trong các trang viết là sự trăn trở của tác giả về vai trò của người lính, của người cán bộ đi ra từ chiến tranh và khả năng gánh vác, tiếp tục dựng xây đất nước. Tuy vậy, vượt qua nhiều thử thách, những dằn vặt nội tâm, các nhân vật chính diện, những người bên phía chiến thắng… vẫn tiếp tục được thể hiện từ cảm hứng ngợi ca”.

Theo Hương Sen - ĐBND
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.

  • Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.

  • Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.

  • Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).

  • Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.

  • Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.

  • NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.

  • “Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.

  • Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.

  • Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.

  • Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).

  • Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).

  • Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.

  • Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.

  • Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.

  • Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...

  • Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.

  • Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.