Tập vồng vông tay không tay có...

08:28 28/03/2024

HỒ NGỌC ÁNH

    Truyện ngắn dự thi 1993

Minh họa: Trương Bé

Làng Bụi trong chợ Thanh Ba có khoảng ba trăm kẻ bơ vơ gồm nhiều lứa tuổi, lắm gốc gác. Có năm gặp ngày lễ lớn, người ta gom chúng lại, lùa ra ngoại ô để quản lý vài ngày. Nhưng rồi lá rụng về cội, đám người đó lại chui vào ổ chợ.

Trong những kẻ đáng thương nhất có thằng bé tật nguyền mà về sau này rất được mọi người chú ý, nhất là đám dân cầu vận đỏ.

Con cái nhà ai, quê quán ở đâu không ai biết nữa. Cái tuổi mười sáu chưa thành nhân thì có ai quản lý nó làm gì! Nó cứ sống.

Thằng bé đi lại rất vất vả. Một bước chân đặt xuống đất là phải mượn toàn thân đánh lắc tới một cái, nghiêng trái nghiêng phải mà đi. Hai bắp chân nhỏ mà ngắn, một cánh tay co quắp luôn kẹp bên sườn. So với đám con trai cùng lứa thì nó bé choắt lại, khô héo. Chắc hồi nhỏ bị bệnh bại liệt rồi biến chứng thành dị tật. Khốn nỗi cái đầu to hơn bình thường, trông nặng nề mỗi khi nó ngước mặt lên với người đời.

Biết thân phận, nó tự kiếm một chỗ ngủ. Cái sạp xi-măng của người bán rau quả trong ngày nó tới lau qua loa, phủ lên tấm ni-lông để ngủ qua đêm. Bọn con nít bụi đời chui rúc trong chợ thường tới phá phách thằng bé. Chúng đè nó ra, giữ chặt tay chân, móc túi vét hết tiền rồi lột quần búng vào con chim. Thằng bé khóc la, quằn quại. Lũ kia cười hả hê.

Sống không nổi ở chợ, thằng bé đi lang thang.

Trong những ngày vất vưởng nằm trên đường phố nó nhìn thấy những người bán vé sổ xố kiến thiết. Họ chả có vốn liếng gì. Chỉ cần hai cái chân và cái mồm.

Có một ngày thằng bé tìm tới bà đại lý, một phụ nữ mập bự, hai cái tai to, mắt lim dim ngồi trên ghế. Nó sụp ngay xuống đất vái lạy. Lạy sấp lạy ngửa cầu xin. Cuối cùng bà đại lý chấp thuận cho thằng bé hàng ngày nhận vé số đi bán.

Dân trong vùng cứ gọi là "thằng-vé-số", còn có người khi thấy mặt chỉ kêu: "ê, số!". Nó bán vé số trong khu vực những người nghèo nàn, số dân "thợ đụng" này làm đủ nghề nhưng không giỏi một nghề nào. Họ kiếm tiền trong ngày, gặp hôm thì tiền dôi ra đem mua vé số cầu lấy vận may trúng thưởng.

Nó biết rõ từng người, từng cảnh ngộ trong khu vực. Nó biết nên đưa vé số mời ai, mời vào lúc nào.

- Cậu ơi! Cậu muốn cát-xét, tivi chứ? Đây! Nó giơ tập vé vẫy vẫy và nở cười với các chàng trai.

- Dì Hai ạ! Sáng nay cháu thấy dì tươi tắn lắm, chắc phát tài to! Dì lấy mười vé đi, cháu cầu may cho dì trúng to đó. Nó xô người tới, dúi tập vé vào tay chị bán buôn đang cười cười nói nói. Thế là nó có tiền rồi.

- Ôi chú! Xin chú bớt đi một xị thôi, mua luôn cặp vé này, tối xổ trúng hai con sau cũng tốt. Chú có thì cháu cũng được hưởng xái mà.

- Vé số này!!!

- Tối xổ này!!!

Nó đi không biết mỏi, cũng không tính được đi bao nhiêu cây số trong ngày. Mặt luôn tươi vui, lạc quan. Nó phải giữ cái bộ mặt ấy đến với mọi người. Nó nghĩ rằng mình đang đem đến vận may cho mọi người.

Một ngày nó kiếm được hơn mười ngàn đồng tiền hoa hồng, thu nhập bằng lương một cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Nó ăn uống chỉ hết một phần năm. Nó biết trước cuộc sống nay mai nên phải dè xẻn, cất giấu.

Chơi xổ số, đánh "xổ số kiến thiết" ngày nay không còn bị lên án "loại đánh bạc cỡ lãnh thổ" nữa, mà người ta tìm thấy trong đó một kế sách làm tiền nhanh chóng. Và trở thành một mặt hoạt động kinh tế - xã hội được nhiệt liệt hưởng ứng. Có nhiều người nên mày nở mặt. Hàng chục vạn người có việc làm. Và cũng có được một vài công trình công nông mọc lên.

Có lẽ những điều ích lợi nói trên thằng bé cũng được nghe. Nó thấy yên lòng và quyết định tìm một chỗ ở cố định.

Một hôm nó la cà ở quán cà phê Hạ Trắng. Nó muốn mướn chỗ ở nhà bà bán bánh bột sắn lọc cô đơn. Bỗng nó bắt gặp một lão nhân trông dáng quái dị. Khuôn mặt to bè như cái chậu thau, bự bự thịt, mắt lồi, mồm rộng hoác, râu quai xồm xoàm, ở màng tai nổi lên một cục thịt đỏ. Ông ta đang gạ gẫm bà cô đơn, giọng cười oang oang. Rồi không hiểu sao bà ta chỉ tay về thằng-vé-số. Thế là lão nhân quái dị đứng lên, cái áo bành rộng thênh vung vẩy, cái mũ vải chụp lên đầu lắc lư, bàn tay thô tháp chống can đầu rồng đi tới. Nó cảm thấy bất an, thủ thế nép mình vào vách. Nó hy vọng lão ta gọi cà phê. Nhưng không, lão đưa cái can vào tận trán nó, cất giọng cha chú:

- Mi đó à!

- Mi cần chỗ ở à?

- Đi về với ông nội, con!

- Dạ không! Nó vùng vẫy khi lão dị nhân nắm lấy tay nó lôi đi.

- Sao lại không hở con? Lão hạ giọng rồi buông tay nó.

- Ông tha cho cháu! Nó thút thít khóc.

- Tao?... - lão cười hắc hắc - Tao bắt mi làm chi! Mụ bột lọc nói mi không có chỗ ở, sống bụi đời, tao rủ lòng thương cho mi một chỗ, hiểu không!

- Dạ hiểu.

- Ừ. Nhà tao rộng thênh, nhiều phòng. Có vườn ăn trái, có cái giếng khơi, có nơi ngủ ấm, có tấm lòng vàng...

- Cháu hiểu ông có lòng tốt...

- Mi sợ mang ơn đội nghĩa thì mi cứ sòng phẳng...

- Cháu muốn cũng vậy.

Thằng-vé-số ở nhà lão nhân quái dị hết một mùa đông.

Đây là ngôi nhà cổ nát. Có năm phòng. Meo mốc. Lão cho thằng-vé-số ở phòng cuối, sát bếp. Nó tự nấu ăn. Một cái giường ván ọp ẹp vừa nó nằm. Lúc đầu, lão sòng phẳng cho nó trả tiền thuê phòng một tháng, năm chục ngàn đồng. Hai tháng sau lão nói nó thu nhập cao phải tăng lên bảy chục ngàn đồng. Cũng tại nó thật thà khai báo...

Còn hiểu sao hơn, thằng-vé-số tăng cường đi. Nhiệt độ thời tiết càng thấp nó càng mở rộng địa bàn, khai thác sâu thêm tâm lý người cầu may, đồng thời phơi bày nỗi cơ hàn, thảm trạng của nó để móc nước mắt đám thị dân vốn có trái tim mềm yếu. Và thằng-vé-số phải lao động cực nhọc, thí mạng để tỏ ra người lớn biết chơi ngông với lão chủ.

Nhưng rồi mọi thứ không qua mắt được mụ bán bánh lọc. Mụ rỉ tai thằng-vé-số và nó bỗng thấy phải chuyển đổi chỗ ở. Đi đâu? Nhà bà bán bánh lọc trống trơn. Rồi nó lại nhìn cái gian rách nát, nơi có hai ông bà thuê ở. Ông đạp xích lô. Bà bán thuốc, nước. Ông bỏ vợ. Bà không chồng. Hai người thuê phòng để sống chung hạnh phúc, cũng cái giá bảy chục ngàn đồng.

- Mi à! Mi thắc mắc tao lấy tiền nhà đắt quá hả? Ở cái thành phố mà dân quê mùa cứ đạp nhau chui vào ở thì hỏi có thừa nhà đâu cho thuê rẻ. Làm nên một cái nhà để ở mi biết tốn bao nhiêu tiền không? Cái cũ nát này đây cũng tám chín cây vàng đó. Tám cây mà nhân cho năm triệu vị chi là bốn mươi triệu đồng. Ui chao! Biết đến khi mô mới thu lại được số tiền triệu đó, hử?

- Dạ, cháu định thưa..

- Mi muốn trả phòng lại?

- Mùa hè tới rồi, cháu ở đâu cũng được ạ.

- Mi sợ tốn tiền? Ngày nào thì thôi ở? À, mà phải ở cho hết tháng này đã con ạ.

- Dạ...

- Nghe đây này! Nếu sau một tháng mà không ai thuê cái phòng ấy thì mi phải trả nửa tiền dù không ở.

- Thưa... Ông?!!

- Vì... hắc hắc, mùa mưa tới đây mi trở lại thuê, như vậy tao bị thiệt...

- Nếu sau này cháu tìm được chỗ khác...

- Làm chi có cho mi, thằng tật nguyền, mà ngốc tử nữa!

Thằng-vé-số toát mồ hôi, ướt cả sống lưng. Đúng. Nó làm sao mà kiếm được một căn phòng giữa thành phố trống rộng này. Trong vốn hiểu biết của nó thì chưa từng nghe từng thấy nơi nào đó chứa chấp, nuôi dưỡng bọn chúng. Lão nhân quái dị biết vậy nên càng thắt ngặt nó hơn. Suy cho cùng thì đồng tiền nó làm ra ví như của nước nổi, như củi rều trôi về trên sông, ai nhanh tay lẹ mắt thì hốt được. Tiền hoa hồng lấy từ những đam mê cầu may, những cuộc chơi vung tay quá đầu... Thằng-vé-số cũng hiểu được như vậy càng ra sức vận dụng thủ pháp móc nước mắt, khoét sâu thêm tâm lý tung ra lời lẽ cho kêu thương hơn, ngọt hơn...

Không ngờ mùa đông ấy kéo lai rai tới tháng ba. Thằng-vé-số cứ ở lỳ trong căn phòng tối ẩm.

Một hôm, lão chủ co ro trong chiếc áo dạ lính tẩy năm xưa tới ngồi cạnh thằng-vé-số. Nó đang lúi húi nấu cơm.

- Con ạ! Mi tật nguyền, tự nấu nướng tao thương quá! Cái kiểu ngồi của mi như thế, thì thà nhịn đói còn hơn.

- Biết làm sao, thưa ông?

- Có cách chứ! Mi ăn chung với tao. Tao ăn chi mi ăn nấy, được chưa? Dẫu sao tao cũng phải nấu một lon gạo, có thêm cho mi một lon cũng chung nồi chung bếp đó thôi.

- Cháu không dám!

- Dám đi! Góp gạo nấu cơm chung, hiểu chứ?

- Nhưng mà...

- Không nhưng mà gì hết! Sòng phẳng thôi, chứ chả ai ân nghĩa với ai cả! Mi đi bán vé số được bao nhiêu tiền đem về cho tao. Như kiểu tao là bố đẻ mi vậy. Mi có nhiệm vụ làm ra tiền. Tao nội trợ.

Thằng-vé-số nghe bùi tai. Nhưng thăm dò:

- Nhỡ có ngày cháu không kiếm được?

- Ngày có ngày không, lẽ thường. Nhưng tao tin bụng mi được không?

- Cháu kiếm được cả chục ngàn đồng một ngày đó! Xin hỏi ông: lúc cháu ốm đau, lúc không còn xổ số?...

- Ồ, tích lũy con ạ. Bố già cất giữ cho con. Yên tâm đi!

Thế là từ đó thằng-vé-số không phải nấu ăn nữa. Sáng, tối đều có cơm canh sẵn trên bàn. Hàng ngày nó móc túi dốc hết tiền cho ông chủ. Nhưng đến đêm thì lão nhân quái dị tới lục xét trong người nó. Trẻ con đã ngủ thì có ném ra đường cũng chẳng hay biết.

Ngày hôm sau, thằng-vé-số ngồi trước cổng ngơ ngẩn một mình. Nó nhìn bầu trời xám xịt. Nó nghĩ không ra. Gói tiền ba trăm bốn mươi bảy ngàn đồng loại bạc năm ngàn cuộn lại luồn trong lưng quần đã không cánh mà bay. Tiền này nó dành dụm trong hai năm bán vé số. Còn tiền hàng ngày kiếm được thì nó không giấu lão chủ nhà một xu. Nó vắt óc ra tìm lấy một sơ xuất nào đó mà lần ra đầu mối. Cuối cùng chỉ thấy đau nhức đầu.

Trưa hôm đó, lão nhân quái dị mua một đĩa lòng lợn, hai cái bánh tráng, một xị rượu.

Hai "bố con" ngồi một bàn.

- Con ạ! Con để tiền trong người nguy hiểm lắm. Bọn cướp giật như rươi!

- Dạ. Lâu nay cháu dành dụm được..

- Ăn đi! Số tiền ấy bố cất trong tủ kia.

- Dạ. Nó mừng rơn.

- Bố giữ cho con!

- Có lúc nào đó cháu muốn lấy lại được không?

- Không.

-...?

- Bố công khai tài chính đây: tiền hàng ngày của mi không đủ xài ba bữa ăn, trượt giá, hiểu không! Bố phải bù vào. Nhưng thôi! Bố cũng có ăn vào đó.

Thế là sạch trơn. Có đó, không đó. Nó sực nhớ câu hát, hay là đang nghe ai hát: "tập vồng vông tay không tay có. Tập vò vọ tay có tay không". Thằng-vé-số nuốt không trôi miếng lòng lợn. Nước mắt trào ra. Nó bỏ đũa.

Lại phải tăng cường đi. Mở rộng địa bàn. Khai thác triệt để tâm lý đám người nghèo cầu may. Moi nước mắt đám thị dân có trái tim nhạy cảm... Vài ngày sau, xấp vé số trong tay thằng-vé-số có một hàng số đúng như hàng số trúng thưởng giải đặc biệt hai mươi lăm triệu đồng. Thường thường những vé trúng thưởng trong ngày người bán vé được thân chủ "lì xì". Mà nó thì rất nhanh nhậy chạy tới nhà báo tin và chúc mừng. Hôm nay lòng dạ nó rối reng, ngớ ngẩn vì lưng túi không còn đồng tiền nào nữa. Nó vừa rao bán vé số, vừa cố lết khắp thành phố dòm ngó có nơi nào có thể gửi tấm thân tật nguyền trong mùa đông tới.

Thằng-vé-số tần ngần đứng trước khách sạn năm tầng mới khai trương: cờ xí, xe cộ, khách khứa, xác pháo... Đây, tất yếu không có chỗ cho thằng-vé-số rồi. Nó mon men tới một ngôi trường phổ thông: cửa sổ và mái ngói mới choang. Thằng-vé-số đứng nhìn, lòng nao nao buồn tủi. Đó gồm những học sinh cùng lứa nhưng áo quần bảnh bao, mặt tươi vui, thân hình khỏe mạnh. Cũng không phải chỗ cho nó!...

Thằng-vé-số lật cái thân hình oằn ẹo lướt đi.

Bỗng có tiếng quát nghe thật thanh đằng sau:

- Thằng-vé-số!

- Ê, số!!!

Nó quay lại nhìn thì một ông già từ trên chiếc xe hon-da nhảy xuống, chạy lại ôm choàng lấy nó. Thằng-vé-số hết hồn, muốn té sấp.

- Hà hà! Tao tìm mi khắp... rồi đó. Không có địa chỉ! Hà hà, đừng sợ! Ông trúng số đặc biệt đây, cái vé mua của mày hiểu chưa?

- A, a! Ông trúng... Ôi, cháu đại mừng cho ông! Nó nhảy tưng lên, người đổ xiêu đổ vẹo.

- Cười đi! Tao tìm mi để lì xì. Ông ta mở nắp túi áo bộ đội lôi ra một tập giấy bạc toàn tờ mười ngàn đồng mới cứng.

- Cho cháu. Tặng cháu thì đúng hơn. Xong. Ông già lạ lẫm ấy nhảy lên hon-đa, ôm lấy người lái rồi vẫy tay chào thằng-vé-số.

Nó khựng đi một lúc lâu, tay ôm giữ tập bạc giấy có chừng năm trăm ngàn. Cả người nó bắn run lên. Ôi! Một đời nó cật lực đi cật lực nói cũng không được chừng ấy.

Nó sực nhớ về cái ngôi nhà đổ nát. Nó lật cái thân oằn ẹo lướt đi. Không! Nó không đi về phía đó, nơi có cái lão chủ cho thuê cắt cổ và độc ác. Phải lánh cho thật xa cái nơi đã lột hết sạch chỗ tiền của nó.

Thằng-vé-số lận, nhét cuộn giấy bạc mới cứng vào ngực áo, vào cái lưng quần rộng thênh của nó. Nó tiếp tục đi. Nó lẩm nhẩm: "Có rồi không. Không rồi có. Nó không cần tính đi bao nhiêu cây số trong ngày. Chỉ một nỗi lo sợ đến khiếp đảm là mùa đông tới nơi rồi mà nó không biết ném cái thân tật nguyền, côi cút này vào đâu?

Huế, 2-1993
H.N.A
(TCSH57/09&10-1993)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRÚC PHƯƠNGDừng lại nghỉ chân, chị Dần tựa lưng vào gốc cây cơm nguội râm bóng bên con đường ngoằn ngoèo dẫn lên dốc Lưng Mây. Mấy cô gái Stiêng quảy gùi đi ngược ra phố trấn chốc chốc gởi lại nụ cười tự nhiên như hoa cỏ cho người phụ nữ miền xuôi đi thăm người nhà trong trại.

  • LÊ GIA NINHMột danh nhân nào đó đã nói rằng: "Người đàn bà có hai lần dễ thương. Một lần trên giường cưới và một lần trên giường chết". Riêng tôi, tôi thấy mỗi tháng người đàn bà có thêm một lần dễ thương nữa. Đó là kỳ nhận lương của chồng.

  • QUỐC THÀNH Năm ấy lên cao nguyên thăm anh bạn, biết tôi lần đầu đến anh dẫn ra trung tâm xã coi cho biết, cũng là lúc dân đi rẫy về. Ngược chiều chúng tôi là một ông già, mắt nhìn xuống miệng cứ lẩm bẩm: "Muộn rồi, Muộn rồi". Tôi nghĩ ông vội đi đâu đó, chắc nóng lòng lắm.

  • ĐÀO DUY HIỆPNgày xưa có một chàng trai rất lịch sự. Anh thường có nhiều khách đến nhà chơi.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNGCái tin đám ma ông S chỉ có chiếc quan tài rỗng dù dấu kín đến mấy cũng cứ lan đi. Mấy "nhà báo trẻ" cứ nhớn nha nhớn nhác muốn gặp thân nhân phỏng vấn, ghi hình nhưng nhìn thấy cái vẻ lãnh đạm của H. bác sĩ quân y, con trai ông, liền co cả lại.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGChao ơi? Xin chào Thầy, lâu ngày ghê.Tôi lúng túng một hồi mới nhận ra cô Sen. Trước mắt tôi bây giờ là một thiếu phụ với nụ cười tươi, rạng rỡ, nhưng vẫn không làm phai đi trên khuôn mặt gầy những vết hằn khốn khó.

  • ĐOÀN LÊ               Tặng anh tôi Anh làm khoa học, tôi là diễn viên nhà hát. Riêng điều đó đã không hợp nhau. Nhưng tuổi trẻ không chịu nghĩ chín chắn, chúng tôi cứ yêu nhau bất chấp mọi giông bão ở cả hai phía gia đình.

  • NGUYỄN NGỌC LỢITối đó bản Phiệt có buổi liên hoan văn nghệ. Cơm chiều xong Tản đưa tôi vào đó chơi. Chúng tôi đang chuẩn bị đi thì một cô đang dẹp đám cuốc xẻng trong góc lán nói vọng ra. Anh Tản mà đưa anh ấy đi thì có mà... Anh ấy đẹp trai, gái bản theo hết, mất phần đấy... Tản cười, cho theo bớt chứ một mình tôi... mệt lắm.

  • LÊ NGUYÊN NGỮTrong bối cảnh rạt rào gió bấc và nắng trải vàng như mật bên ngoài báo hiệu Tết sắp vê, con ngựa cũng đứng dạng bốn chân như lắng nghe câu chuyện đầy hoài niệm mà Tư Gồng bắt đầu kể tôi nghe. Giản dị vì đây là câu chuyện về chính nó, Tư Gồng trước kia đã lần khân hẹn khất với tôi chờ đến Tết Con Ngựa. Mà lúc này thì đã là cuối tháng chạp rồi.

  • NGUYỄN QUANG LẬPChiều ba mươi tết, Quỳ đạp xích lô ra ga, tính đón khách chuyến tàu vét rồi gửi xích lô, bắt xe đò về quê. Vừa vào sân ga, tàu chưa về đã có khách gọi, may thế. Khách là một trung niên mặt rỗ, quần bò áo thun, kính đen gọng vàng.

  • ĐỖ KIM CUÔNG1... Cho đến lúc sực tỉnh, tôi mới nhận ra con đường ra cánh đồng tôm và những vườn dừa dưới chân núi Đồng Bò.

  • HỒNG NHU Xóm phố nằm trên một khu đất trước đây là một dẫy đồi nghe nói vốn là nơi mồ mả dày đặc, phần lớn là mồ vô chủ không biết từ bao đời nay; và cũng chẳng biết nơi nào có nơi nào không, bởi vì gần như tất cả mồ mả ở đó đều đã bị thời gian mưa gió bào mòn, chẳng còn nấm ngôi gì cả.

  • TRẦN HẠ THÁP1*Gã nằm xuống thoải mái. Cảm giác mát lạnh của ghế đá còn rịn hơi sương buổi sớm thu giúp gã chợp mắt ngay. Công viên thành phố không chỉ là bạn đời của những ai không nhà, các tên chích choác, kẻ sống ngoài vòng luật pháp... Đây cũng là nơi khá thân quen đối với người như gã. Ít ra đã hơn bốn tháng qua, từ khi gã rời một khách sạn năm sao trong thành phố.

  • THÁI KIM LAN"Làm sao biết từng nỗi đời riêngĐể yêu thương yêu cho nồng nàn”                              Trịnh Công Sơn

  • THÁI KIM LAN(tiếp theo)

  • NGUYỄN ĐẶNG MỪNGLGT: Cuộc sống cứ lao về phía trước, song những tâm hồn đa cảm thì lại hay ngoảnh nhìn về phía sau. Nước nhảy lên bờ là ánh nhìn về những ngày đã qua giữa một vùng quê bình yên của “đêm trước đổi mới”. Một bức tranh quê sống động, dung dị song ngổn ngang những cảnh đời, những cảnh tình mà chúng ta không được phép quên, bởi tư duy đổi mới của đất nước hãy còn tiếp diễn...

  • VĨNH NGUYÊNNgô - bạn tôi rủ tôi về làng Chẻ.Đến thành phố H.H., tôi mượn chiếc xe máy của một người quen. Tôi chở Ngô về làng An Hải Trung.

  • I. Nàng là nhân vật chính của vở kịch. Vở kịch đang diễn ra. Những chủ đề về tình yêu và hôn nhân, về ước mơ và sự thật, về hoài vọng và định mệnh, về sinh ly và tử biệt, v.v và v.v... đan chéo và quyện chặt vào nhau, tạo nên một trường nghĩa lơ mơ lan man đầy ảo dị mà qua đó, những nhân vật còn lại cứ tông tốc xoay xỏa quanh một nhân vật trung tâm đang chơi trò mê hoặc: nhân vật chính.

  • Đó là lần thứ mười Malio quay về góc phố ấy. Phố hẹp, những căn nhà mặt tiền nhấp nhô, khách sạn lấp lánh đèn chen cửa hàng tơ lụa, phòng tranh sơn mài phương Đông sát với những quán cà phê nho nhỏ bài trí kiểu Tây phương...

  • Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.