Nhưng bàn đến vấn đề này, tôi cũng có chút phân vân. Nói đến văn nghệ là nói đến thẩm mỹ, nói về cái đẹp, là người cầm bút, sao anh cứ nhằm nhè vào cái tiêu cực, cái xấu? Và tôi băn khoăn ngay từ mấy chữ “đề tài chống tiêu cực” cả vì tính thời sự của vấn đề này nữa. Từ năm 1962, trong lúc thư gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 3, BCH Trung ương Đảng ta đã chỉ rõ: “Văn nghệ phải là một vũ khí sắc bén, giúp cho chế độ ta, nhân dân ta đánh bại những tư tưởng thù địch, đẩy lùi những tư tưởng ích kỷ, lười biếng, ươn hèn, những thói tục xấu xa, giúp cho cái mới luôn luôn nảy nở và con người mới phát triển không ngừng… Nhân dân ta yêu cầu văn nghệ không chỉ biểu dương những ưu điểm và thắng lợi mà còn phải thẳng thắn phê bình những khuyết điểm và nhược điểm trên bước trưởng thành của cách mạng với một tinh thần xây dựng và một thái độ chân thành…” Quan điểm này, trong hơn hai mươi năm qua, Đảng ta đã kiên trì nhắc nhở văn nghệ sĩ qua nhiều nghị quyết và chỉ thị về công tác văn nghệ. Vậy mà gần đây, một số cuốn sách phần nào thể hiện được quan điểm nói trên đã trở nên sự kiện nổi bật trong phong trào sáng tác; báo chí nối nhau ngợi khen cổ vũ, người đọc săn tìm như đối với một vật lạ rồi nhỏ to truyền tụng về sự táo bạo của nhà xuất bản, của tác giả đã dám đụng chạm đến “ông này bà kia”! Tại sao lại có tình hình đó? Tôi nghĩ có lẽ có hai nguyên nhân chính. Trước hết phải nói đến trách nhiệm của người cầm bút đã không làm tròn chức năng người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá và tư tưởng. Đã mấy chục năm rồi Đảng nhắc nhở “văn nghệ phải là một vũ khí sắc bén”, nhưng mãi đến nay, một vài cuốn sách thật sự mang hơi thở cuộc đấu tranh chống “những tư tưởng ích kỷ, lười biếng, ươn hèn…” vẫn như là sản phẩm mới lạ, thì dù biện bạch bằng cách nào, những người cầm bút cũng phải gánh phần trách nhiệm. Phần trách nhiệm còn lại tất nhiên thuộc về khách quan. Người cầm bút trong xã hội ta, do những cơ chế và những điều kiện hoạt động cụ thể, chịu sự chi phối và điều chỉnh của khá nhiều yếu tố chung quanh. Đáng kể nhất có lẽ là thói quen, là nếp nghĩ của không ít người chỉ ưa lối nói, lối viết một chiều tán dương thành tích và ưu điểm. Thói quen và nếp nghĩ ấy đi ngược đường lối của Đảng, chẳng ai công bố thành văn bản, vậy mà nhiều khi có uy lực như một luật lệ, khống chế sức chiến đấu của những cây bút chân chính. Đảng và nhân dân đòi hỏi văn nghệ phải là vũ khí sắc bén, nhưng uy lực của thói quen ấy lại nhằm gọt tròn tác phẩm để được êm thấm. Trong chiều hướng ấy, hễ có tác phẩm nào nói nhiều đến khó khăn và khuyết điểm, lên án những thói xấu của “ông này bà kia” thì bị coi là “không ổn - có vấn đề” thậm chí tác giả còn bị gây khó dễ trong cuộc sống riêng. Đó là trường hợp anh Mai Văn Tấn sau bài ký “Ở một hợp tác xã không tăm tiếng”. Cả đến cây bút nữ “hiền lành” Trần Thùy Mai với ý muốn tốt đẹp góp “một chút màu xanh” cho đời, cũng có người cho là “có vấn đề - chỉ toàn nói chuyện tiêu cực”, khi họ đọc chuyện của chị đăng trên tạp chí Sông Hương số 1. Tôi nghĩ đã đến lúc cần đổi mới chiều hướng dư luận, tạo nên một cách đánh giá tác phẩm ngược lại nếp nghĩ kể trên: cần phải coi là “có vấn đề”, thậm chí phải lên án những tác giả cho ra đời những tác phẩm viết về sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta mà chỉ toàn nói những chuyện tốt đẹp, chẳng thấy bóng dáng một nhân vật tiêu cực nào. Cũng có người vin cớ “sợ kẻ địch lợi dụng” để tán đồng, cổ vũ cho lối viết tròn trĩnh ngọt ngào ấy; thực ra, những tác phẩm như thế đã làm lợi cho kẻ thù vì nó làm người ta dễ ngủ quên trên thắng lợi, lu mờ tinh thần cảnh giác trước cảnh bình yên giả tạo. Chúng ta đều biết rõ, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta với đặc điểm lớn nhất là đi thẳng từ nền sản xuất nhỏ lên xã hội chủ nghĩa tất phải trải qua cuộc đấu tranh cực kỳ gay go và phức tạp. Văn nghệ phản ánh cuộc đấu tranh ấy, trên trang viết có hai mặt tốt - xấu, tích cực - tiêu cực là lẽ đương nhiên, là một điều tất nhiên vậy. Nó cũng đương nhiên như một trận đấu bóng không thể chỉ có cầu thủ một bên sân. Vì thế tôi nghĩ chẳng nên đặt tên gọi “đề tài chống tiêu cực”, dù việc phân chia đề tài trong văn nghệ chỉ là một quy ước tương đối mà thôi. Có thể nói với nguyên tắc phản ánh chân thật cuộc sống của chủ nghĩa hiện thực, không kể một vài thể loại và phong cách khai thác đề tài một cách riêng, thiên về vẻ đẹp, về chiều sâu lịch sử văn hoá (như trong bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng hạn), tất cả các đề tài công nghiệp nông nghiệp, giáo dục,… và cả đề tài chiến tranh cách mạng nữa cũng đều cần có nội dung “chống tiêu cực”. Tôi đã có vinh dự được sống nhiều năm ở những mũi nhọn của ngành giao thông vận tải, bên những đơn vị anh hùng trên đường Trường Sơn và tuyến lửa Quảng Bình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và chính ở đó đã lộ mặt những kẻ hèn nhát, cơ hội, những tên ăn cắp và dối trá… Những tác phẩm đơn giản hóa cuộc sống, không thể hiện chân thật những khó khăn và thất bại, những cuộc đấu tranh gay go giữa địch - ta, giữa người tốt - kẻ xấu và trong mỗi con người, chẳng những không có sức hấp dẫn quần chúng - những người đọc, người xem từng trải hiểu biết tường tận sự thật và có trình độ thẩm mỹ ngày một cao - mà còn hạ thấp tầm vóc anh hùng sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Hiện nay, những biểu hiện tiêu cực kéo dài - như Báo cáo chính trị tại Đại hội 5 đã chỉ rõ, đang là vấn đề thời sự trong dư luận xã hội, nhưng coi đó cũng là “vấn đề thời sự” đối với hoạt động văn nghệ thì chưa hẳn đã thật đúng. Gần đây, sau khi công bố Nghị quyết 4 của Trung ương Đảng ta, ngày 29-6, báo Nhân dân đăng bài “Hậu quả sự dối trá” dịch từ báo Sự thật Liên Xô ngày 28-5-83 kể lại cuộc đấu tranh đã dẫn đến việc BCH Trung ương Đảng phải thi hành kỷ luật đến cả bí thư thành ủy, bí thư tỉnh ủy Xa-ra-tốp, cả một thứ trưởng và nhiều cán bộ quan trọng khác vì họ đã bao che cho một cán bộ thoái hóa. Hiện tượng tiêu cực ấy có khác gì ở ta (nếu không nói là nghiêm trọng hơn vì ở ta chưa công bố công khai một vụ nào như thế!) mặc dù xã hội Liên Xô phát triển vượt chúng ta cả một thời kỳ lịch sử hàng chục năm. Như thế có thể nói, chừng nào văn nghệ còn phản ánh cuộc sống trong sự vận động phát triển của nó, chừng đó văn nghệ còn đề cập đến những hiện tượng, những nhân vật tiêu cực. Nói cách khác, nội dung “chống tiêu cực” không chỉ mang tính thời sự mà có tính lâu dài, nếu không muốn nói là vĩnh cửu. Có ai dám đoán chắc con người ta mấy trăm, ngàn năm nữa sẽ trở nên hoàn thiện trăm phần trăm? Cũng chính vì vậy, cùng với mong ước từ nay việc đề cập đến những mặt tiêu cực trong tác phẩm văn nghệ sẽ trở nên bình thường, tự nhiên như nó vốn có trong cuộc sống, tôi cũng mong muốn có sự bình đẳng và bình tĩnh nữa khi xem xét, đánh giá một tác phẩm có đụng đến chuyện tiêu cực. Tại sao chúng ta có thể bình tĩnh đọc bài báo “hậu quả sự dối trá”, nhưng lại xôn xao lên - thậm chí nghi ngờ cả thiện ý của tác giả khi có một bài ký có đôi đoạn đụng chạm đến một vị lãnh đạo cấp huyện? Văn nghệ là một vũ khí sắc bén và thật lợi hại, nhưng cách nhìn những sáng tác của đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng chúng ta như là những sản phẩm thường chứa những độc tố, như con dao hai lưỡi, với con mắt đề phòng cảnh giác, ít nhiều cũng làm nhụt chí “xung phong” của những cây bút đang muốn có chất “thép” trong sáng tác của mình. (Ở đây, tôi không kể đến những kẻ mượn cây bút để thực hiện mục đích xấu xa. Khi đó, họ đã tự vượt ra khỏi lĩnh vực văn nghệ, số phận họ thuộc về các cơ quan công an, tòa án). Chính vì ngại ngần trước những con mắt “cảnh giác” với tất cả tác phẩm văn nghệ, đã có không ít tác giả, tuy có thiện ý, đã phải xây dựng tác phẩm theo một cách bố trí nhân vật giống nhau - một lối mòn đáng chán nhưng tạo được thế “cân bằng” và người cầm bút được bằng yên! Với loại sáng tác đó, nếu đã có nhân vật giám đốc thoái hóa thì không cần xem tiếp cũng biết bí thư đảng ủy là người gương mẫu; hoặc nếu có gan phê phán tận bí thư huyện chẳng hạn thì bí thư tỉnh ủy ắt phải là nhân vật kiểu mẫu v.v… Nhưng cuộc sống thì lại muôn vẻ và như trường hợp bài “hậu quả sự dối trá” thì hàng loạt cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Thành ủy, Tỉnh ủy ở phía tiêu cực, lẽ phải lại thuộc về đảng bộ cấp dưới. Dù vậy - nếu không muốn nói là chính vì vậy, chính vì phản ánh chân thật cuộc sống, nên bài báo đã cho ta thấy rõ sức sống của Đảng, có sức kêu gọi con người đấu tranh cho lẽ phải, chân lý. Có thể nói đó chính là “cái đẹp” của những tác phẩm có đề cập đến hiện tượng và nhân vật tiêu cực. Tuy vậy, tôi không nghĩ là cứ nhất thiết viết “tiêu cực” cho thật đậm mới là tác phẩm có tính hiện thực cao. Việc đưa mặt tiêu cực vào tác phẩm như thế nào cho có hiệu quả nghệ thuật là việc không dễ dàng. Tôi nghĩ người viết cần có sự hiểu biết thật sâu sắc hiện thực mình miêu tả để lựa chọn những gì có ý nghĩa, có tính điển hình, gắn với vấn đề mình đặt ra trong tác phẩm và đạt được mục đích giúp cho cái mới luôn nảy nở và con người mới phát triển không ngừng. Liều lượng mặt tiêu cực ít hay nhiều, nặng hay nhẹ, nhân vật tiêu cực là người có quyền cao chực trọng, hay chỉ là một nhân viên thường tùy thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn ấy. Người cầm bút có trách nhiệm, hiểu biết nghề nghiệp và chức năng của văn nghệ không thể tùy tiện tung mọi thứ tiêu cực vào tác phẩm chỉ để hả cơn bực giận của mình. Cuối cùng, tôi xin được kể lại đôi điều về công việc của mình vì nó liên quan đến những ý kiến tôi vừa trình bày. Không phải bây giờ mà từ năm 1970, sau khi được dự lớp bồi dưỡng những người viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam, trên cơ sở hiểu biết đường lối văn nghệ của Đảng được sâu sắc hơn, tôi đã có ý định đưa không ít nhân vật tiêu cực và đề cập đến những vấn đề dễ “đụng chạm” như vấn đề tổ chức và cán bộ, cách đánh giá và sử dụng trí thức, sự bất lực của lớp cán bộ giàu nhiệt tình nhưng thiếu trình độ chuyên môn v.v… khi xây dựng bộ tiểu thuyết hai tập “Đường giáp mặt trận” và “Chỗ đứng người kỹ sư”. Hồi ấy, có người đã khuyên tôi “Đừng viết! Viết như thế dễ bị đánh lắm!” Nhưng tôi là một người trong cuộc, 15 năm sống trong ngành giao thông vận tải hẳn đã giúp tôi nhìn đúng vấn đề và cho tôi cái vốn để có thể lựa chọn những chất liệu có ích cho tác phẩm. Và tôi tin ở động cơ tốt đẹp, tin ở tấm lòng thành của mình. Hồi còn là một cán bộ kỹ thuật trên công trường, tôi đã hăng hái ghi tên “tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm” và tôi tự hào đã phấn đấu trở thành người lao động gương mẫu. Tôi yêu Đảng, yêu cuộc sống trên những công trường xây dựng với tình yêu trong trắng của thời thanh niên sôi nổi quãng đời đẹp nhất trong cuộc đời mình. Trên trang viết của tôi là cuộc sống ấy, tình yêu ấy ; cho dù là khi tôi viết về một cán bộ kỹ thuật từng được tín nhiệm cử vào Thường vụ Đoàn, vào chi ủy, nhưng vì ham chức tước, địa vị đã thành một kẻ cơ hội thoái hóa, hay khi viết về một cán bộ Cục hèn nhát, chỉ muốn an phận, một bí thư đảng ủy vì không hiểu biết kỹ thuật mà lại thừa hăng hái đã có những quyết định sai trái, thậm chí đã gây ra tại nạn lao động v.v… thì cũng vẫn là tình yêu cao đẹp ấy đã thôi thúc ngòi bút của tôi. Có lẽ nhờ vậy mà khi hai tập tiểu thuyết ra đời, dù còn nhiều vụng dại về nghề nghiệp, các báo Nhân dân, Văn nghệ, Lao động … đã nhiệt tình đăng bài động viên cổ vũ, đánh giá những trang viết của tôi “có cách nhìn nhận lý giải vấn đề không nông cạn, sáo mòn…”. Tiểu thuyết “Chỗ đứng người kỹ sư” đã được Tổng Công đoàn và Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải trong dịp tổng kết sáng tác văn học đề tài công nhân 5 năm (1976-1980) và gần đây tôi được biết cuốn “Đường giáp mặt trận” sắp được tái bản. Đối với người viết, việc kể lể đôi chút thành tựu của mình cũng dễ mang tiếng là không khiêm tốn; tôi cũng tự biết 2 cuốn sách của mình vẫn còn có chỗ đơn giản, thậm chí còn chịu ảnh hưởng xu hướng “gọt tròn” tác phẩm, nhưng từ những gì 2 cuốn sách đó đã đạt được, tôi đã nhận thức rõ hơn con đường đúng đắn của người cầm bút khi đứng trước những hiện tượng tiêu cực và những vấn đề phức tạp trong cuộc sống hiện nay: Tác phẩm muốn đề cập đến nhân vật tiêu cực thì tác giả càng phải là người tích cực; cái tiêu cực chỉ đáng được đưa vào tác phẩm khi nó có tác dụng tích cực. Như thế, màu đen, cái xấu hiện ra trong tác phẩm chỉ càng giúp rọi sáng tâm hồn người đọc, khơi gợi những cảm xúc thẩm mỹ tốt đẹp và kêu gọi con người hành động sáng tạo. Như thế, tác phẩm văn nghệ của chúng ta mới là vũ khí sắc bén của Đảng của nhân dân. 8-1983 NGUYỄN KHẮC PHÊ (3/10-83) |
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H
MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.
INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.
HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.
TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).
VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.
HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.
NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).
TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.
NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.
L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.
NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).
ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre), tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.
NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.