Nhưng bàn đến vấn đề này, tôi cũng có chút phân vân. Nói đến văn nghệ là nói đến thẩm mỹ, nói về cái đẹp, là người cầm bút, sao anh cứ nhằm nhè vào cái tiêu cực, cái xấu? Và tôi băn khoăn ngay từ mấy chữ “đề tài chống tiêu cực” cả vì tính thời sự của vấn đề này nữa. Từ năm 1962, trong lúc thư gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 3, BCH Trung ương Đảng ta đã chỉ rõ: “Văn nghệ phải là một vũ khí sắc bén, giúp cho chế độ ta, nhân dân ta đánh bại những tư tưởng thù địch, đẩy lùi những tư tưởng ích kỷ, lười biếng, ươn hèn, những thói tục xấu xa, giúp cho cái mới luôn luôn nảy nở và con người mới phát triển không ngừng… Nhân dân ta yêu cầu văn nghệ không chỉ biểu dương những ưu điểm và thắng lợi mà còn phải thẳng thắn phê bình những khuyết điểm và nhược điểm trên bước trưởng thành của cách mạng với một tinh thần xây dựng và một thái độ chân thành…” Quan điểm này, trong hơn hai mươi năm qua, Đảng ta đã kiên trì nhắc nhở văn nghệ sĩ qua nhiều nghị quyết và chỉ thị về công tác văn nghệ. Vậy mà gần đây, một số cuốn sách phần nào thể hiện được quan điểm nói trên đã trở nên sự kiện nổi bật trong phong trào sáng tác; báo chí nối nhau ngợi khen cổ vũ, người đọc săn tìm như đối với một vật lạ rồi nhỏ to truyền tụng về sự táo bạo của nhà xuất bản, của tác giả đã dám đụng chạm đến “ông này bà kia”! Tại sao lại có tình hình đó? Tôi nghĩ có lẽ có hai nguyên nhân chính. Trước hết phải nói đến trách nhiệm của người cầm bút đã không làm tròn chức năng người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá và tư tưởng. Đã mấy chục năm rồi Đảng nhắc nhở “văn nghệ phải là một vũ khí sắc bén”, nhưng mãi đến nay, một vài cuốn sách thật sự mang hơi thở cuộc đấu tranh chống “những tư tưởng ích kỷ, lười biếng, ươn hèn…” vẫn như là sản phẩm mới lạ, thì dù biện bạch bằng cách nào, những người cầm bút cũng phải gánh phần trách nhiệm. Phần trách nhiệm còn lại tất nhiên thuộc về khách quan. Người cầm bút trong xã hội ta, do những cơ chế và những điều kiện hoạt động cụ thể, chịu sự chi phối và điều chỉnh của khá nhiều yếu tố chung quanh. Đáng kể nhất có lẽ là thói quen, là nếp nghĩ của không ít người chỉ ưa lối nói, lối viết một chiều tán dương thành tích và ưu điểm. Thói quen và nếp nghĩ ấy đi ngược đường lối của Đảng, chẳng ai công bố thành văn bản, vậy mà nhiều khi có uy lực như một luật lệ, khống chế sức chiến đấu của những cây bút chân chính. Đảng và nhân dân đòi hỏi văn nghệ phải là vũ khí sắc bén, nhưng uy lực của thói quen ấy lại nhằm gọt tròn tác phẩm để được êm thấm. Trong chiều hướng ấy, hễ có tác phẩm nào nói nhiều đến khó khăn và khuyết điểm, lên án những thói xấu của “ông này bà kia” thì bị coi là “không ổn - có vấn đề” thậm chí tác giả còn bị gây khó dễ trong cuộc sống riêng. Đó là trường hợp anh Mai Văn Tấn sau bài ký “Ở một hợp tác xã không tăm tiếng”. Cả đến cây bút nữ “hiền lành” Trần Thùy Mai với ý muốn tốt đẹp góp “một chút màu xanh” cho đời, cũng có người cho là “có vấn đề - chỉ toàn nói chuyện tiêu cực”, khi họ đọc chuyện của chị đăng trên tạp chí Sông Hương số 1. Tôi nghĩ đã đến lúc cần đổi mới chiều hướng dư luận, tạo nên một cách đánh giá tác phẩm ngược lại nếp nghĩ kể trên: cần phải coi là “có vấn đề”, thậm chí phải lên án những tác giả cho ra đời những tác phẩm viết về sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta mà chỉ toàn nói những chuyện tốt đẹp, chẳng thấy bóng dáng một nhân vật tiêu cực nào. Cũng có người vin cớ “sợ kẻ địch lợi dụng” để tán đồng, cổ vũ cho lối viết tròn trĩnh ngọt ngào ấy; thực ra, những tác phẩm như thế đã làm lợi cho kẻ thù vì nó làm người ta dễ ngủ quên trên thắng lợi, lu mờ tinh thần cảnh giác trước cảnh bình yên giả tạo. Chúng ta đều biết rõ, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta với đặc điểm lớn nhất là đi thẳng từ nền sản xuất nhỏ lên xã hội chủ nghĩa tất phải trải qua cuộc đấu tranh cực kỳ gay go và phức tạp. Văn nghệ phản ánh cuộc đấu tranh ấy, trên trang viết có hai mặt tốt - xấu, tích cực - tiêu cực là lẽ đương nhiên, là một điều tất nhiên vậy. Nó cũng đương nhiên như một trận đấu bóng không thể chỉ có cầu thủ một bên sân. Vì thế tôi nghĩ chẳng nên đặt tên gọi “đề tài chống tiêu cực”, dù việc phân chia đề tài trong văn nghệ chỉ là một quy ước tương đối mà thôi. Có thể nói với nguyên tắc phản ánh chân thật cuộc sống của chủ nghĩa hiện thực, không kể một vài thể loại và phong cách khai thác đề tài một cách riêng, thiên về vẻ đẹp, về chiều sâu lịch sử văn hoá (như trong bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng hạn), tất cả các đề tài công nghiệp nông nghiệp, giáo dục,… và cả đề tài chiến tranh cách mạng nữa cũng đều cần có nội dung “chống tiêu cực”. Tôi đã có vinh dự được sống nhiều năm ở những mũi nhọn của ngành giao thông vận tải, bên những đơn vị anh hùng trên đường Trường Sơn và tuyến lửa Quảng Bình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và chính ở đó đã lộ mặt những kẻ hèn nhát, cơ hội, những tên ăn cắp và dối trá… Những tác phẩm đơn giản hóa cuộc sống, không thể hiện chân thật những khó khăn và thất bại, những cuộc đấu tranh gay go giữa địch - ta, giữa người tốt - kẻ xấu và trong mỗi con người, chẳng những không có sức hấp dẫn quần chúng - những người đọc, người xem từng trải hiểu biết tường tận sự thật và có trình độ thẩm mỹ ngày một cao - mà còn hạ thấp tầm vóc anh hùng sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Hiện nay, những biểu hiện tiêu cực kéo dài - như Báo cáo chính trị tại Đại hội 5 đã chỉ rõ, đang là vấn đề thời sự trong dư luận xã hội, nhưng coi đó cũng là “vấn đề thời sự” đối với hoạt động văn nghệ thì chưa hẳn đã thật đúng. Gần đây, sau khi công bố Nghị quyết 4 của Trung ương Đảng ta, ngày 29-6, báo Nhân dân đăng bài “Hậu quả sự dối trá” dịch từ báo Sự thật Liên Xô ngày 28-5-83 kể lại cuộc đấu tranh đã dẫn đến việc BCH Trung ương Đảng phải thi hành kỷ luật đến cả bí thư thành ủy, bí thư tỉnh ủy Xa-ra-tốp, cả một thứ trưởng và nhiều cán bộ quan trọng khác vì họ đã bao che cho một cán bộ thoái hóa. Hiện tượng tiêu cực ấy có khác gì ở ta (nếu không nói là nghiêm trọng hơn vì ở ta chưa công bố công khai một vụ nào như thế!) mặc dù xã hội Liên Xô phát triển vượt chúng ta cả một thời kỳ lịch sử hàng chục năm. Như thế có thể nói, chừng nào văn nghệ còn phản ánh cuộc sống trong sự vận động phát triển của nó, chừng đó văn nghệ còn đề cập đến những hiện tượng, những nhân vật tiêu cực. Nói cách khác, nội dung “chống tiêu cực” không chỉ mang tính thời sự mà có tính lâu dài, nếu không muốn nói là vĩnh cửu. Có ai dám đoán chắc con người ta mấy trăm, ngàn năm nữa sẽ trở nên hoàn thiện trăm phần trăm? Cũng chính vì vậy, cùng với mong ước từ nay việc đề cập đến những mặt tiêu cực trong tác phẩm văn nghệ sẽ trở nên bình thường, tự nhiên như nó vốn có trong cuộc sống, tôi cũng mong muốn có sự bình đẳng và bình tĩnh nữa khi xem xét, đánh giá một tác phẩm có đụng đến chuyện tiêu cực. Tại sao chúng ta có thể bình tĩnh đọc bài báo “hậu quả sự dối trá”, nhưng lại xôn xao lên - thậm chí nghi ngờ cả thiện ý của tác giả khi có một bài ký có đôi đoạn đụng chạm đến một vị lãnh đạo cấp huyện? Văn nghệ là một vũ khí sắc bén và thật lợi hại, nhưng cách nhìn những sáng tác của đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng chúng ta như là những sản phẩm thường chứa những độc tố, như con dao hai lưỡi, với con mắt đề phòng cảnh giác, ít nhiều cũng làm nhụt chí “xung phong” của những cây bút đang muốn có chất “thép” trong sáng tác của mình. (Ở đây, tôi không kể đến những kẻ mượn cây bút để thực hiện mục đích xấu xa. Khi đó, họ đã tự vượt ra khỏi lĩnh vực văn nghệ, số phận họ thuộc về các cơ quan công an, tòa án). Chính vì ngại ngần trước những con mắt “cảnh giác” với tất cả tác phẩm văn nghệ, đã có không ít tác giả, tuy có thiện ý, đã phải xây dựng tác phẩm theo một cách bố trí nhân vật giống nhau - một lối mòn đáng chán nhưng tạo được thế “cân bằng” và người cầm bút được bằng yên! Với loại sáng tác đó, nếu đã có nhân vật giám đốc thoái hóa thì không cần xem tiếp cũng biết bí thư đảng ủy là người gương mẫu; hoặc nếu có gan phê phán tận bí thư huyện chẳng hạn thì bí thư tỉnh ủy ắt phải là nhân vật kiểu mẫu v.v… Nhưng cuộc sống thì lại muôn vẻ và như trường hợp bài “hậu quả sự dối trá” thì hàng loạt cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Thành ủy, Tỉnh ủy ở phía tiêu cực, lẽ phải lại thuộc về đảng bộ cấp dưới. Dù vậy - nếu không muốn nói là chính vì vậy, chính vì phản ánh chân thật cuộc sống, nên bài báo đã cho ta thấy rõ sức sống của Đảng, có sức kêu gọi con người đấu tranh cho lẽ phải, chân lý. Có thể nói đó chính là “cái đẹp” của những tác phẩm có đề cập đến hiện tượng và nhân vật tiêu cực. Tuy vậy, tôi không nghĩ là cứ nhất thiết viết “tiêu cực” cho thật đậm mới là tác phẩm có tính hiện thực cao. Việc đưa mặt tiêu cực vào tác phẩm như thế nào cho có hiệu quả nghệ thuật là việc không dễ dàng. Tôi nghĩ người viết cần có sự hiểu biết thật sâu sắc hiện thực mình miêu tả để lựa chọn những gì có ý nghĩa, có tính điển hình, gắn với vấn đề mình đặt ra trong tác phẩm và đạt được mục đích giúp cho cái mới luôn nảy nở và con người mới phát triển không ngừng. Liều lượng mặt tiêu cực ít hay nhiều, nặng hay nhẹ, nhân vật tiêu cực là người có quyền cao chực trọng, hay chỉ là một nhân viên thường tùy thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn ấy. Người cầm bút có trách nhiệm, hiểu biết nghề nghiệp và chức năng của văn nghệ không thể tùy tiện tung mọi thứ tiêu cực vào tác phẩm chỉ để hả cơn bực giận của mình. Cuối cùng, tôi xin được kể lại đôi điều về công việc của mình vì nó liên quan đến những ý kiến tôi vừa trình bày. Không phải bây giờ mà từ năm 1970, sau khi được dự lớp bồi dưỡng những người viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam, trên cơ sở hiểu biết đường lối văn nghệ của Đảng được sâu sắc hơn, tôi đã có ý định đưa không ít nhân vật tiêu cực và đề cập đến những vấn đề dễ “đụng chạm” như vấn đề tổ chức và cán bộ, cách đánh giá và sử dụng trí thức, sự bất lực của lớp cán bộ giàu nhiệt tình nhưng thiếu trình độ chuyên môn v.v… khi xây dựng bộ tiểu thuyết hai tập “Đường giáp mặt trận” và “Chỗ đứng người kỹ sư”. Hồi ấy, có người đã khuyên tôi “Đừng viết! Viết như thế dễ bị đánh lắm!” Nhưng tôi là một người trong cuộc, 15 năm sống trong ngành giao thông vận tải hẳn đã giúp tôi nhìn đúng vấn đề và cho tôi cái vốn để có thể lựa chọn những chất liệu có ích cho tác phẩm. Và tôi tin ở động cơ tốt đẹp, tin ở tấm lòng thành của mình. Hồi còn là một cán bộ kỹ thuật trên công trường, tôi đã hăng hái ghi tên “tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm” và tôi tự hào đã phấn đấu trở thành người lao động gương mẫu. Tôi yêu Đảng, yêu cuộc sống trên những công trường xây dựng với tình yêu trong trắng của thời thanh niên sôi nổi quãng đời đẹp nhất trong cuộc đời mình. Trên trang viết của tôi là cuộc sống ấy, tình yêu ấy ; cho dù là khi tôi viết về một cán bộ kỹ thuật từng được tín nhiệm cử vào Thường vụ Đoàn, vào chi ủy, nhưng vì ham chức tước, địa vị đã thành một kẻ cơ hội thoái hóa, hay khi viết về một cán bộ Cục hèn nhát, chỉ muốn an phận, một bí thư đảng ủy vì không hiểu biết kỹ thuật mà lại thừa hăng hái đã có những quyết định sai trái, thậm chí đã gây ra tại nạn lao động v.v… thì cũng vẫn là tình yêu cao đẹp ấy đã thôi thúc ngòi bút của tôi. Có lẽ nhờ vậy mà khi hai tập tiểu thuyết ra đời, dù còn nhiều vụng dại về nghề nghiệp, các báo Nhân dân, Văn nghệ, Lao động … đã nhiệt tình đăng bài động viên cổ vũ, đánh giá những trang viết của tôi “có cách nhìn nhận lý giải vấn đề không nông cạn, sáo mòn…”. Tiểu thuyết “Chỗ đứng người kỹ sư” đã được Tổng Công đoàn và Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải trong dịp tổng kết sáng tác văn học đề tài công nhân 5 năm (1976-1980) và gần đây tôi được biết cuốn “Đường giáp mặt trận” sắp được tái bản. Đối với người viết, việc kể lể đôi chút thành tựu của mình cũng dễ mang tiếng là không khiêm tốn; tôi cũng tự biết 2 cuốn sách của mình vẫn còn có chỗ đơn giản, thậm chí còn chịu ảnh hưởng xu hướng “gọt tròn” tác phẩm, nhưng từ những gì 2 cuốn sách đó đã đạt được, tôi đã nhận thức rõ hơn con đường đúng đắn của người cầm bút khi đứng trước những hiện tượng tiêu cực và những vấn đề phức tạp trong cuộc sống hiện nay: Tác phẩm muốn đề cập đến nhân vật tiêu cực thì tác giả càng phải là người tích cực; cái tiêu cực chỉ đáng được đưa vào tác phẩm khi nó có tác dụng tích cực. Như thế, màu đen, cái xấu hiện ra trong tác phẩm chỉ càng giúp rọi sáng tâm hồn người đọc, khơi gợi những cảm xúc thẩm mỹ tốt đẹp và kêu gọi con người hành động sáng tạo. Như thế, tác phẩm văn nghệ của chúng ta mới là vũ khí sắc bén của Đảng của nhân dân. 8-1983 NGUYỄN KHẮC PHÊ (3/10-83) |
NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.
LÊ ĐẠT Đường bụi trang lịch cũ ếp ếp đàn thời gian L.Đ
HOÀNG NGỌC HIẾN (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).
VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.
NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)
NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.
ĐÀO DUY HIỆP “Hội làng mở giữa mùa thu Giời cao gió cả giăng như ban ngày” (Nguyễn Bính)
YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.
ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.
NHẬT CHUNG (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.
PHONG LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.
HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.
ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.
TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.
HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.
HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.