LÊ ĐÌNH PHÚC
Ảnh: tư liệu
Lâu nay, trong khá nhiều bài viết và một số công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hóa Huế nói riêng, vùng Thừa Thiên nói chung chúng ta thấy các tác giả thường lấy mốc khởi đầu vào năm 1306 - khi Chế Mân (vua Chăm Pa) dâng hai châu Ô, Rí làm sính lễ để cưới Huyền Trân công chúa của Đại Việt đời Trần. Có lẽ vì nhiều lí do khác nhau, cả về nhận thức lẫn sự thiếu thốn về mặt tư liệu cho nên việc nghiên cứu lịch sử - văn hóa Huế mới bắt đầu từ đó, nghĩa là được xây dựng từ khi nó thuộc vào lãnh thổ Đại Việt và có người Việt hiện đại di cư vào cư trú.
Chúng tôi cho rằng quan niệm như vậy là hết sức phiến diện, sai lầm. Hàng loạt vấn đề thuộc về lịch sử - văn hóa của vùng đất này đã không được đề cập. Hoặc có thể đề cập thì hết sức sơ sài, miễn cưỡng. Có người cho trước năm 1306 đây là một vùng đất Chăm Pa, không thuộc phạm vi nghiên cứu của lịch sử - văn hóa Thừa Thiên - Huế. Như thế vô tình họ đã rút ngắn thời gian lịch sử - văn hóa Huế lại hàng nghìn năm, hàng vạn năm. Và, chưa gắn được một cách chặt chẽ, mật thiết giữa lịch sử - văn hóa Huế vốn là một bộ phận không thể tách rời của lịch sử - văn hóa Việt Nam có cội nguồn sâu xa từ thời tiền sử, sơ sử và phát triển liên tục cho mãi tới ngày nay. Nói lịch sử - văn hóa Việt Nam là nói tới lịch sử - văn hóa của tất cả các cộng đồng tộc người đã từng chung sống trên lãnh thổ này từ thời tiền sử đến nay. Lịch sử là bản thân quá trình phát triển của hiện thực khách quan trong tự nhiên và xã hội, do vậy khi nghiên cứu lịch sử - văn hóa Huế (cũng như bất cứ ở một vùng nào khác, cần phải mở rộng thời gian và xem xét toàn bộ quá trình phát triển tổng hợp của mọi mặt hoạt động và đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của tất cả các cộng đồng tộc người đã từng cư trú trên mảnh đất này từ thời nguyên thủy đến nay. Quá trình ấy phải có sự kế thừa, phát triển nội tại, gầy dựng nên những bản lĩnh, bản sắc riêng, vừa có sự hòa hợp, hỗn dung văn hóa với bên ngoài để góp phần tạo nên những đặc trưng/chung của dân tộc trong lịch sử - văn hóa Huế. Về phương diện văn hóa, Huế sẽ không còn là "Huế" khi nó không mang trong mình những bản sắc riêng hết sức độc đáo thể hiện trong lối sống, trong văn hóa nghệ thuật, trong phong tục tập quán, trong thế ứng xử tự nhiên và xã hội của cộng đồng cư dân ở đây. Chính cái bản lĩnh, bản sắc riêng ấy của Huế đã được sàng lọc, gầy dựng từ nhiều điều kiện khác nhau và lâu bền trong lịch sử. Muốn tìm cội nguồn sâu xa của những bản sắc ấy rõ ràng chúng ta phải đi ngược về với lịch sử, phải vận dụng các quan điểm sinh thái học và sử học mác xít để phân tích, xem xét các điều kiện lịch sử cụ thể theo quan hệ năng động hai chiều. Bởi vì con người là sản phẩm của tự nhiên, đứng đối diện với tự nhiên mà làm nên lịch sử - văn hóa, vừa là một sản phẩm của lịch sử - văn hóa do chính mình tạo ra. Huế là khu vực ở vừa vị trí trung độ của đất nước, lại sát biển, cạnh rừng nên các yếu tố văn hóa - lịch sử có sự hỗn dung, pha trộn nhiều chiều, từ đó mà lắng đọng, kết tinh. Cái nhìn về biển đầy cởi mở, năng động phóng khoáng và phần kinh tế rừng, gò đồi... đều in dấu khá đậm trong đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của cư dân Huế. Hội đua thuyền, hò mái nhì trên sông nước cùng tồn tại lâu bền với làn điệu lý "Con vượn, vượn trèo..." trong đời sống văn hóa tinh thần; hay hình thức "Một chốn đôi quê" trong đời sống kinh tế... là những minh chứng ghi nhận điều đó. Chính điều kiện tự nhiên và lịch sử Huế là hai nhân tố cơ bản tạo nên bản sắc riêng của văn hóa Huế. Khi nói đến điều kiện tự nhiên và lịch sử Huế rõ ràng là phải mở rộng cả không gian lẫn thời gian chứ không chỉ dừng lại trong phạm vi cương vực hành chính hiện đại và từ 1306 khi Huế sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt đến nay. Vùng tiểu khí hậu nói riêng và điều kiện sinh thái tự nhiên của Huế nói chung tương đối rộng, nó là vùng gò đồi, cồn bãi đồng bằng trước núi gắn liền với sông ngòi, đầm phá ven biển ít ra cũng từ Phong Điền (phía Bắc) vào tới Phú Lộc (phía Nam). Do sống trong một điều kiện sinh thái đó mà cư dân Thừa Thiên - Huế có chung một thế ứng xử tương đồng, khó mà phân biệt được đâu là cốt cách, dấu ấn, bản sắc riêng văn hóa Huế, đâu là Thừa Thiên(1). Nếu có khác thì cũng biểu hiện ở bộ phận văn hóa cung đình - văn hóa đế vương của nhà Nguyễn trước đây. Bộ phận này xuất hiện muộn và có ảnh hưởng trực tiếp đến một phần thị dân sống trong nội thành, nhưng không đủ mạnh, không hoàn toàn đại diện cho lịch sử - văn hóa Huế. Hay nói đúng hơn, từ khi ra đời, nó chỉ là một trong hai dòng của văn hóa Huế.
Về mặt thời gian, lịch sử - văn hóa Huế có từ bao giờ? Đó là một câu hỏi lớn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải tập trung nhiều công sức để nghiên cứu, khảo tìm trong một thời gian dài nữa mới có thể trả lời được. Bởi vì như F.Ăng-ghen đã nói có con người là có lịch sử. Mà dấu vết cư trú của con người nguyên thủy ở đây còn quá mờ nhạt, chưa đủ cơ sở khoa học để khẳng định thời điểm một cách cụ thể, rõ ràng.
Tuy nhiên, tài liệu khảo cổ học cũng đã hé mở cho chúng ta những nhận thức bước đầu. Đó là: "Ở vùng Huế gò đồi đã phát hiện những dấu vết bước đầu của văn hóa cuội sơn vì cuối thời đại đá cũ",(2) (cách ngày nay khoảng một vạn năm). Đến thời đại đá mới mà đặc trưng tiêu biểu nhất của nó là những chiếc rìu, hòn đá mài và đồ gốm thì đã tìm thấy được nhiều nơi như Phú Ổ, Bàu Dưng (Hướng Chữ), Phò Trạch (Phong Thu)... Trước đây, Hen-ri Pi-rây cũng đã tìm thấy 2 rìu đá mài ở thôn Hà Môn - Huế hiện đang còn tàng trữ tại viện bảo tàng lịch sử Việt Nam (Hà Nội). Rộng ra, ở triền Đông Trường Sơn thuộc vùng đệm kế cận của Huế, thời gian qua chúng tôi cũng đã phát hiện được khá nhiều rìu, bôn đá của người nguyên thủy tại các xã Hồng Thủy, Hồng Vân, Hồng Hạ, Hồng Bắc, Bắc Sơn... (A Lưới). Điều thú vị là nghiên cứu chất liệu, hình dáng, kích thước, kỹ thuật chế tác của những chiếc rìu, côn này cho thấy có nhiều nét gần gũi, tương đồng với những rìu, côn ở Phù Ơ, Bàu Dưng, Hà Môn, Phò Trạch... Chính đây là những dấu hiệu nói lên một truyền thống kỹ thuật chung đã được hình thành từ thời nguyên thủy.
Sau đợt biến tiến Pleistôcene và Holocene, đồng bằng ven biển được bồi tụ, cùng với đà phát triển chung, nhất là về phương diện kỹ thuật chế tác công cụ, người nguyên thủy đã từng bước tràn xuống chinh phục, khai phá, mở rộng địa bàn sản xuất và cư trú của mình trên những doi đất phù sa ven sông, biển. Bằng sự phát triển nội tại kết hợp với việc tiếp thu, hội nhập các yếu tố văn hóa từ bên ngoài dội vào, cư dân ở đây đã tiến dần vào xã hội văn minh. Các di tích thuộc văn hóa Sa Huỳnh được chúng tôi phát hiện ở Cồn Ràn (Hương Chữ), Tứ Hạ (thị trấn Hương Trà) đã khẳng định sự có mặt của cư dân Chăm cổ sinh sống ở vùng đất này trong thời sơ sử.
Sau khi nước ta bị Bắc thuộc theo Tiền Hán Thư (9.28 từ 10b) thì vào năm 111 trước công nguyên Huế thuộc đất quận Nhật Nam. Bấy giờ các cộng đồng người ở đây đã có ý thức rất rõ về chủ quyền của mình. Bởi vậy nên năm 40 họ đã đoàn kết nhất tề đứng dậy cùng nhân dân Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ chống lại ách xâm lược. Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã dành được độc lập chủ quyền trong một thời gian ngắn (40-43). Và, sau khi khởi nghĩa bị dập tắt, nhân dân Nhật Nam vẫn thường xuyên nổi dậy đấu tranh, không chịu khuất phục ách đô hộ của nhà Hán. Kết quả là, vào năm 192 các tộc người ở đây đã cùng với nhân dân Chàm (một tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam) đã đánh đuổi được bọn phong kiến phương Bắc, lập nên nước Chăm Pa độc lập, tự chủ kéo dài từ Đèo Ngang đến Thuận Hải.
Điểm qua vài nét như vậy cũng đủ để chúng ta thấy điển hình phát triển của lịch sử - văn hóa Huế là vô cùng phong phú, đa dạng. Từ cái gốc, cội nguồn được gầy dựng trong thời tiền sử phát triển qua Sa Huỳnh - Chăm cổ lên Chăm Pa rồi quy tụ về với quốc gia Đại Việt. Con đường đã được gợi mở, nhưng đi vào nội dung lịch sử - văn hóa cụ thể của mỗi thời kỳ diễn tiến ra sao thì đến nay chúng ta vẫn còn chưa giải quyết được vì quá thiếu thốn về mặt tư liệu. Hy vọng thời gian tới nếu có kế hoạch đầu tư cho công tác điều tra, nghiên cứu thích đáng chúng ta sẽ từng bước làm sáng rõ được diễn trình phát triển của lịch sử - văn hóa Huế.
L.Đ.P
(TCSH54/03&4-1993)
----------------------
(1) Ở đây tôi muốn nói với bản sắc chung của cộng đồng cư dân Huế chứ không phải nói đến một bộ phận nhỏ sống ở nội thành, ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa cung đình Triều Nguyễn.
(2) Xem GS Trần Quốc Vượng: "Những thành tựu nghiên cứu văn hóa rực rỡ ở miền Trung", Báo “Thể thao và văn hóa” số 33 ngày 19.8.1989 trang 14.
CAO CHÍ HẢI
Nghệ thuật sân khấu, âm nhạc vô cùng phong phú và đặc sắc, nhiều lễ hội cổ truyền và thuần phong mỹ tục tiêu biểu của người Việt được lưu truyền đến Nghệ thuật múa của dân tộc Việt xuất hiện cách đây khoảng 4000 năm.
MAI VĂN HOAN
Một số bài viết đề cập đến nơi an táng Đại thi hào Nguyễn Du gần đây chủ yếu dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền. Gia phả ghi: “Năm Canh Thìn (1820) Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi.
TRẦN ĐÌNH BA
1. Lược sử, ý nghĩa lệ cày ruộng tịch điền
Trước hết, chúng ta phải khẳng định một sự thật hiển nhiên rằng, Việt Nam là quốc gia nông nghiệp lúa nước, hay nói như lời nhà Nho Phan Kế Bính (1875 - 1921) có đề cập trong Việt Nam phong tục, thì đó là một “Nông quốc”1, quốc gia lấy nông nghiệp làm gốc.
CAO THỊ HOÀNG
1.
Mùi bùn non từ cửa sông theo gió chướng lộng về, tôi ngây ngây mùi nhớ! Cái mùi nhớ đôi lúc bâng khuâng và cũng lắm khi, rịt chặt tâm hồn kẻ hậu sinh với tiền nhân thuở trước. Tôi quay lại Huế.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Trong số những đối tượng được thờ cúng và được xem là phúc thần của nhiều làng xã vùng Huế, thì Khai canh, Khai khẩn là một thần hiệu ra đời khá muộn.
VĨNH AN
Sự nhẹ nhàng của tính cách sẽ khiến doanh nghiệp (DN) Huế dễ gần gũi với khách hàng hơn; sự chu đáo trong cuộc sống khiến khách hàng có cảm giác được DN Huế quan tâm hơn; lòng yêu thiên nhiên và nếp sống hòa hợp với thiên nhiên sẽ khiến khách hàng yên tâm về sự phát triển xanh và bền vững hơn của DN Huế… Và đó chính là lợi thế của DN Huế, là đặc tính văn hóa nổi bật của DN Huế.
TRUNG SƠN
I - Lời nhắc nhở của nhà văn Nguyễn Tuân.
Nhà Văn Nguyễn Tuân là người cẩn thận và độc đáo trong việc dùng chữ nghĩa. Vậy nên nhắc đến "cụ", trước hết phải có đôi lời về cái đầu bài.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
Trong quan niệm của người Việt xưa, chó là con vật trung thành và mang lại nhiều may mắn. Tục thờ chó được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Có nơi thờ chó đá trước cổng như một linh vật với ý nghĩa cầu phúc, trừ tà hoặc đặt chó đá trên bệ thờ và coi như một bậc thần linh.
NGUYÊN HƯƠNG
Từ trung tâm thành phố, chạy thêm 25km về hướng Đông Nam sẽ gặp xã Phú Hải (thuộc huyện Phú Vang) gồm 4 ngôi làng tên Cự Lại: Cự Lại Đông, Cự Lại Bắc, Cự Lại Trung và Cự Lại Nam (dân làng thường gọi chung là Cự Lại). Những ngôi làng này nằm kề sát nhau, có chiều dài khoảng 2km, trải dọc ven biển và phá Tam Giang.
TRƯỜNG AN
“Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất trắng trời…”
PHƯỚC VĨNH
Du lịch dịch vụ đang được xác định là mũi tàu xanh của con thuyền rẽ sóng ra biển lớn của Thừa Thiên Huế. Làm sao để mỗi công dân đang sống ở miền sông Hương núi Ngự, ngay từ nhỏ đã được khơi gợi ý thức về việc tạo nên sản phẩm du lịch và triển khai ý tưởng đó, với một ý thức văn hóa Huế đã ăn sâu trong tiềm thức…
VÕ VINH QUANG
Tộc Nguyễn Cửu và những dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn hóa xứ Thần Kinh
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Sau đêm binh biến Thất thủ Kinh đô, kinh thành Huế ngập chìm trong máu lửa, tiếng khóc than. Những dãy nhà gỗ, mái tranh chạy dọc hai bên đường Đông Ba đến giáp hoàng cung ngập chìm trong biển lửa. Bọn Tây tay súng, lưỡi lê hàng ngang tha hồ tàn sát quân dân ta.
NGUYỄN CAO THÁI
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”
TRIỀU NGUYÊN
1. Đặt vấn đề
Có lẽ không ít lần chúng ta đã nghe nói đến hai dạng thơ Song điệp và Song thanh điệp vận của thể thơ Thất ngôn luật Đường, trên thi đàn Việt. Vậy chúng là những kiểu, dạng thơ như thế nào, và quan hệ giữa chúng ra sao?
HOÀI VŨ
* Vài nét về việc du nhập điện ảnh vào Huế
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) năm 2016 có đăng bài “Vài nét về lịch sử nhiếp ảnh và điện ảnh ở Thừa Thiên Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cung cấp nhiều tư liệu rất quý.
THẢO QUỲNH
Quyết Chiến là tờ nhật báo đầu tiên của cách mạng xuất bản ở Huế sau Cách mạng Tháng Tám, là cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân cách mạng, tiếng nói của Đảng bộ Việt Minh Thuận Hóa và của tỉnh Nguyễn Tri Phương (bí danh của tỉnh Thừa Thiên). Mới đây, đọc lại một số báo Quyết Chiến, chúng tôi tìm thấy một số thông tin liên quan đến Ngày Khỏe vì nước đầu tiên của Huế vào giữa năm 1946. Xin trích dẫn lại để bạn đọc tham khảo:
Thời gian qua, tỉnh Thừa Thiên Huế đã đẩy mạnh các chương trình trọng điểm để tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh mọi mặt kinh tế - xã hội. Mỗi chương trình trong chuỗi các chương trình lớn, như là một căn nền tạo lực nâng cho tương lai.
Kỉ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam
THANH BIÊN (*)
NGUYỄN THÀNH
Kỷ niệm 60 năm khoa Ngữ Văn Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế (1957 - 2017)