Suy nghĩ về sự cách tân thơ và những người làm thơ trẻ

16:03 05/12/2008
TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

Song nếu sự đổi mới ở các thể loại văn học khác là một quá trình tiệm tiến, thì ở thơ quá trình ấy có thể có những bất ngờ, những đột biến, những gien trội, nhiều khi chẳng theo một qui luật nào.Vì vậy, Hàn Mặc Tử, Bích Khê trên con đường sáng tạo thi ca của mình, từ Đường thi đã nhảy vọt đến lĩnh vực tượng trưng, siêu thực. Thế nên ở lĩnh vực thi ca người ta thường đặt vấn đề cũ hay mới, truyền thống hay cách tân, cổ điển hay hiện đại, già hay trẻ... mà ở các thể loại khác ít nêu ra hoặc nếu có thì vấn đề cũng không cấp bách và khốc liệt như thơ.

2. Sở dĩ có tình hình này, vì so với các thể loại khác thơ là một thể loại năng động luôn gắn với những biến sinh của đời sống xã hội. Đối tượng tiếp nhận thơ vô cùng phong phú và đa phức nên đòi hỏi thơ phải luôn tự đổi mới mình. Nghĩa là thơ phải mới và luôn được cách tân. Sự lặp lại trong sáng tạo văn học ở mọi thể loại là điều không thể chấp nhận được. Với thơ, điều ấy lại là một bi kịch. Vì vậy, yêu cầu tạo sinh khí mới để đem đến sức trẻ cho thơ đó là một phẩm chất, là một hằng số của thơ. Song để hiểu được thơ là điều không hề đơn giản!? Nhà thơ Bungari Blaga Dimitrova đã tâm sự “Ôi nếu tôi biết thơ là gì thì cả đời tôi chẳng phải khổ sở thế” (1). Còn nhà thơ Chế Lan Viên luôn tự vấn “Thực ra tôi chưa hiểu hết thơ đâu, tôi cũng có định nghĩa nhiều lần đấy, nói hẳn hoi, viết hẳn hoi. Nhưng lần này định nghĩa thì lần sau nắn lại, chỗ này định nghĩa thì chỗ khác bổ sung. Vẫn còn nghĩ tiếp, nghĩ tiếp mà” (2). Vì thế, việc đi tìm bản thể của thơ luôn là vấn đề còn bỏ ngỏ. Cho nên, yêu cầu đổi mới để cách tân thơ để khám phá bản thể thơ là một yêu cầu hằng cửu. Song phẩm chất của thơ không phải ở chỗ thơ mới  hay cũ, hiện đại hay cổ điển, truyền thống hay cách tân mà là ở chỗ, đó là “thơ chính hiệu” hay chỉ là “cái giống thơ”. Bởi nói như nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch “Dù sao thì thơ vẫn tồn tại với tư cách là sứ giả quý tộc của thế giới tâm linh và nó không chịu đánh tráo giữa mục đích và phương tiện, giữa đồng nghĩa và đồng âm (.....).

Đây đó, người ta đã than phiền rằng thơ hôm nay đang lạm phát. Cái đó không có thực . Đấy là sự ngô nhận đáng tiếc, thơ đúng nghĩa của nó chưa bao giờ có nhiều. Cái phần nhiều đó chỉ là cái giống thơ chứ không phải là thơ. Đừng đánh đồng cái giống thơ với thơ (.....) đành rằng những cái giống thơ ấy đang thịnh hành như một thứ “mốt”. Đây là vật trang sức thời thượng, rẻ tiền cho những kẻ háo danh. Nó là cái ngoài đời sống văn học, mặc nó. Hãy để sự im lặng lạnh lùng như hố thẳm của qui luật đào thải nâng niu nó?” (3). Và anh tiếp tục khẳng định “Thơ là sáng tạo cuộc sống, nó song song với cuộc sống, nó không miêu tả cuộc sống như lâu nay người ta quan niệm. Với thơ nếu cần nói tới chức năng thì phải chăng nó chỉ có một chức năng duy nhất mà tưởng như tổng thể là chức năng thẩm mĩ” (4). Nghĩa là sự hằng tồn của thơ luôn gắn với sự hằng tồn của cái đẹp trong đời sống. Vũ trụ của thơ là vũ trụ của cái đẹp ở đó khí hậu dinh dưỡng nhà thơ phải là khí hậu của cái đẹp. Sản phẩm thơ phải là thơ đích thực mà phẩm chất trước tiên phải hay và đẹp, không phải là thứ giả thơ. Có như thế thơ mới trở thành một “lời kinh cầu” trong đời sống tâm linh con người và thật sự hiện tồn trong cõi nhân sinh. Bởi “Thơ là sự Đẹp tuyệt trần của sự vật, và sự chiêm ngưỡng sự Đẹp ấy trong lý tưởng” (Alfred De Vigny). Hay nói như nhà thơ Chế Lan Viên:
                           Thơ dở không dịch được 
                             Thơ hay như người đẹp, ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng

                                                                                     (Sổ tay thơ)
Quả thật, thơ hay như mĩ nhân bao giờ cũng là tâm điểm thu hút sự ngưỡng mộ của người đọc. Vì vậy, vấn đề cách tân thơ, làm mới thơ chỉ là một trong những yếu tính của thơ chứ không phải là yếu tố quyết định phẩm chất thơ. Cái làm nên phẩm chất của thơ, tạo nên giá trị hằng cửu cho thơ là thơ có hay không?! Bởi dù cách tân, mới lạ, hiện đại đến đâu mà thơ không hay thì đó chẳng phải là thơ mà chỉ là những quái thai của thơ. Vì thế, không thể sinh thành nên những hoàng tử thơ, những công chúa thơ hoàn mĩ được. Việc cách tân thơ, làm mới thơ, không chỉ là trách nhiệm của những nhà thơ trẻ mà đó là thiên chức của các nhà thơ. Cho nên, không thể suy nghĩ hàm hồ rằng những người làm thơ của thế hệ trước không có trách nhiệm gì trong việc làm mới, làm trẻ lại thơ hôm nay. Để rồi, họ cứ  sáng tạo theo quán tính, theo lối mòn thì vô tình những nhà thơ đó đã tạo nên sức ỳ cho quá trình cách mạng của thơ.

Đồng thời, các nhà thơ trẻ cũng không vì những yêu cầu cấp bách của sự cách tân, mà đi vào những tìm tòi, thể nghiệm xa lạ với chân giá trị của thơ làm cho thơ trở nên bí hiểm cũng là điều không tốt. Ngược lại, các nhà thơ trẻ phải sáng tạo với khát vọng hướng đến những mỹ cảm mới để tạo nên cái đẹp mới cho thơ ở cả nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Đó cũng là đòi hỏi bức thiết của cuộc sống và của thơ. Con thuyền thơ có căng buồm lướt sóng vượt ra những đại dương bao la của cõi thơ và cõi đời hay mãi neo lại trong những dòng sông bé nhỏ, đó là trách nhiệm của mọi nhà thơ mà trong đó các nhà thơ trẻ có một vai trò quan trọng chứ không phải là quyết định. Bởi vì sức mạnh để đẩy con thuyền thơ ra khơi đó là sức mạnh tổng hợp của mọi thế hệ nhà thơ và của mọi thế hệ người đọc chứ không phải là “độc quyền” của các nhà thơ trẻ.

3. Nhìn lại thời gian gần đây, ta thấy xuất hiện hàng loạt các nhà thơ trẻ mà tên tuổi của họ luôn được nhắc đến trên thi đàn như Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Phạm Hồ Thu, Bùi Sim Sim, Phạm Kim Anh, Đặng Thị Thanh Hương, Bình Nguyên, Vũ Thị Huyền, Trần Kim Hoa, Nguyễn Quyến, Nguyễn Hưng Hải, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Bảo Chân... Các nhà thơ trẻ đã có cố gắng, thậm chí có những bức phá trong tự đổi mới mình và đổi mới thơ. Nhưng sự đổi mới đó không phải lúc nào cũng được dư luận ủng hộ, đồng tình, hoặc được các cơ quan xuất bản, quản lý văn nghệ quan tâm. Việc nhà thơ trẻ Văn Cầm Hải với tập thơ “Giấc mơ của lưỡi” mấy năm xếp hàng ở nhà xuất bản, vì biên tập viên nào đọc cũng bảo “không hiểu” (5). Hay Vi Thùy Linh “Đến tập Vili thì chạy vòng quanh qua đủ các cửa ải, và rốt cuộc là xếp xó. Năm năm sau, nghĩa là đến tháng mười năm 2005 mới được in ra bằng một cái tên khác: Đồng tử” (6).

Rồi Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh cũng rất khó khăn mới khẳng định mình. Hay gần đây nhất là sự kiện tập thơ “Dự báo phi thời tiết” do Nhà xuất bản Hội Nhà Văn phát hành tháng 12 năm 2005 của nhóm nữ nhà thơ trẻ thuộc thế hệ 8X gồm Lynh Bacardi, Khương Hà, Phương Lan, Nguyệt Phạm, Thanh Xuân bị thu hồi sau khi đã cho phép phát hành với một lý do không mấy thuyết phục khi cho rằng thơ họ “không phù hợp với văn hóa Việt Nam”. Đó là điều đặt ra cho chúng ta nhiều suy nghĩ về thái độ đối với những tìm tòi, thể nghiệm trong sáng tạo của các nhà thơ trẻ trên hành trình tìm con đường đổi mới và cách tân thơ ca dân tộc trước đòi hỏi của đời sống đương đại. Những việc làm như thế liệu chúng ta có thật sự công bằng và trân trọng những tìm tòi, sáng tạo của các nhà thơ trẻ không!? Hay chúng ta quá khắt khe vì chưa bắt nhịp được với tư duy của thế hệ trẻ!?

Hiểu biết, Khám phá, sáng tạo, là phẩm chất của người nghệ sĩ tại sao chúng ta còn e ngại trước những khám phá sáng tạo của các nhà thơ trẻ? Hãy mở cho họ cánh cửa đi vào chân trời của khám phá, sáng tạo, và cho phép họ “trình làng” những sản phẩm thơ của họ trước cuộc đời. Nếu đó không phải là thơ hay, không tạo được một hệ giá trị, chắc chắn sẽ tan vào hư vô, sẽ đi vào cõi quên lãng của người đời. Thế thôi! Bởi thời gian và người đọc luôn là một quan tòa công minh với mọi giá trị của sáng tạo nghệ thuật mà thơ không thể là một ngoại lệ. Nếu chúng ta cứ nghiêm khắc và thận trọng một cách “hồn nhiên” như thế liệu còn đâu là động lực để cho những nhà thơ và nhất là các nhà thơ trẻ mạnh dạn đi vào con đường sáng tạo và cách tân vốn không phải lúc nào cũng đầy hoa mà nhiều khi họ phải gánh chịu những hy sinh thầm lặng và có khi còn bị “đóng đinh” trên cây thập giá đời. Và như thế liệu thơ chúng ta sẽ đi về đâu, nếu mọi sang tạo, mọi khám phá, mọi tìm tòi, thể nghiệm không có kích cầu, không được khuyến khích và trân trọng!? Nhà thơ Chế Lan Viên đã đúc kết từ sự nghiệm sinh của cả một đời mình khi ông cho rằng:
                           Những bài thơ già muốn ổn định trong biền ngẫu,
                                                                                   vừa xứng đôi,
                                                                               môn đăng hộ đối
                          Chỉ có sức trẻ mới nhảy ba bậc một lần,
                                                                    Vọt phi ra ngoài cửa sổ...
                          Chỉ có thanh xuân mới so le, thô bạo cộc cằn
                          Ôi! Có khi sai lầm lại phì nhiêu hơn cái khôn khéo
                                                                        Nghèo nàn, trật tự
                                                           (Thi Pháp Trẻ, Di Cảo Thơ III)
Thơ vốn là tiếng gọi từ cõi vô biên. Hãy trả thơ về với cõi vô biên của nó. Như thế, chúng ta mới mong chạm đến bản thể của thơ. Còn không chúng ta chỉ là người bộ hành trong sa mạc thơ với những cơn khát thèm mà không bao giờ tìm được dòng sông thơ để giải thoát cơn thèm khát ấy. Hãy để cho những người trẻ đồng hành cùng những thế hệ nhà thơ lớp trước đi tìm những dòng sông thơ mới lạ từ cõi vô biên của thơ. Chúng ta đừng biến thơ thành sa mạc mà phải biến thơ thành những thảo nguyên bát ngát xanh tươi để thơ thật sự là một vũ trụ với nhữäng ngôi nhà thơ huyền diệu hầu đem lại sự bình yên cho tâm hồn con người vốn đang sống trong một xã hội có quá nhiều điều bất an. Đó là điều cần thiết là thông điệp của mọi nền thơ ca đích thực. Và vấn đề cách tân trong quá trình sáng tạo để đổi mới thơ ca luôn là một tiếng gọi từ trong vô thức của nhà thơ và cũng là một yếu tính của thơ. Bởi vì “Cái sức rung động của một bài thơ chỉ có thể vào sâu và lan rộng nếu đã thâu góp được cái sức rung động của vô biên, nghĩa là của muôn nghìn cõi đất.” (7). Và nói như Cyprian Norwid, một nhà thơ Ba Lan “Thế giới nầy rốt cuộc chỉ còn lại hai thứ, chỉ hai thứ thôi: Thi ca và lòng nhân ái... không còn gì khác”.
                                                                Quảng Ngãi tháng 5-2006
T.H.A

(nguồn: TCSH số 208 - 06 - 2006)

 


                                                                                
--------------
(1) Blaga Dimitrova, Ngày phán xử cuối cùng, Nxb Thanh Niên, H, 1973 , tr. 298 .                   
(2) Chế Lan Viên,
Bay theo đường dân tộc đang bay , Nxb Văn học giải phóng,1976, tr.96 .
(3) Nguyễn Khắc Thạch, “
Cảm nghĩ về thơ hôm nay”, Sông Hương phê bình và đối thoại, Nxb Văn hóa thông tin H, 2003, tr. 358 .
(4) Nguyễn Khắc Thạch, “
Cảm nghĩ về thơ hôm nay”, Sông Hương phê bình và đối thoại, Nxb Văn hóa thông tin H, 2003, tr. 359 .
(5) Ngô Minh, “
Văn Cầm Hải không ăn bóng một thời đã qua”, Tạp chí sông Hương số 2003-2004; tháng 1,2; 2006, tr. 135 .
(6) Nguyễn Trọng Tạo, “
Mấy suy nghĩ về thơ và thơ trẻ”, Tạp chí sông Hương số 4 (2006), tr. 75.
(7) Quan niệm thơ của Nhóm Dạ Đài, Thơ Mới 1932-1945,
Tác giả, tác phẩm, Nxb Hội Nhà Văn, H, 2004, tr.1254

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).