NGUYỄN ĐẠI GIANG
Tôi nhận được thư điện tử từ Hà Nội: Anh về ngay, mẹ sắp mất. Sửng sốt, thẫn thờ, bàng hoàng vì cách đây một tháng, bà cụ còn khỏe lắm. Hơn nữa còn hai ngày nữa là tết.
Minh họa: Nhím
Ôi chao, bất cứ gia đình nào trong ngày tết mà có tang được coi là đại kỵ. Nhưng bổn phận làm con, tôi ra đặt vé máy bay, thu xếp hành lý trở về trong sự đau buồn này. Tôi cũng không quên lấy 3 đồng chinh bói một quẻ Kinh Dịch, cùng cầu trời khấn Phật phù hộ cho mẹ tôi qua khỏi. Kết quả quẻ Địa Hỏa Minh Di hiện ra. Quẻ rất xấu với cái ý tóm tắt: “qua sông chặt cầu”, nghĩa là mẹ tôi khó trở lại dương gian.
Về đến Hà Nội, chiều tối 30 tết, phố xá đã lên đèn, rạng rỡ hơn những ngày thường, ngay cả những hàng cây cũng được mặc những cái áo bằng bóng đèn xanh, đỏ, tím, vàng. Nhà nhà đều đóng cửa im ỉm. Phố vắng tanh. Còn rớt lại một vài công nhân làm vệ sinh và dọn rác. Cảnh vật, không gian, và con người đương hoan hỉ chờ đón năm mới với bao niềm hy vọng. Cũng lúc đó đại gia đình tôi đau buồn, đau đớn trước cảnh mẹ chúng tôi từ giã cõi đời này.
Trong căn buồng nhỏ, tranh tối tranh sáng, mẹ tôi nằm bất động. Tóc bà trắng xóa tương phản với khuôn mặt tái xanh của người ốm. Hệt như nước từ thác Bản Giốc đổ ào ào xuống những thớt đá xanh xám sì. Tay bà vẫn còn cầm một tràng hạt màu hạt dẻ niệm Phật. Ba năm trước bà đã quy y tam bảo.
Mười một người con của bà đã về đủ. Từ Mỹ, Úc, Sài Gòn, Hà Nội, đang đứng xung quanh bà miệng lầm rầm vang lên, lúc to lúc nhỏ:
“Nam mô A Di Đà Phật”.
Trước đó khoảng nửa tiếng, bà nhúc nhích cái tay, lần hồi, chầm chậm lấy từ túi áo 200 đôla Mỹ, đưa cho Hiếu, con trai út. Rồi bà xòe hết cả năm ngón tay khẳng khiu như cái quạt giấy, báo hiệu, chúng tôi hiểu rằng: bà chẳng còn giữ cái gì trên đời nữa trước khi “ĐI”. Lúc này bà đã cấm khẩu, lặng lẽ đi vào cõi “Mê”.
Ngọn đèn 100w trên trần nhà hình như tối hơn. Ánh sáng vàng nhạt của nó đang chuyển dần sang mầu đỏ quạch. Ngoài ngõ trời tối mịt. Đây đó tiếng pháo nổ đì đẹt. Ngày mai mở đầu một năm mới thì đêm nay mẹ tôi bước sang một thế giới khác: Thế giới của cõi Âm. Giây phút cuối cùng của một đời người. Trọng thể vô cùng.
Tất cả anh em chúng tôi đều nhận thấy.
Nam mô A Di Đà Phật của mười một con người ầm vang, như tiếng sóng thủy triều ào ào tiến dần vào bờ của biển cả mênh mông. Hết đợt này đến đợt khác, mẹ tôi bắt đầu thở gấp, mắt vẫn nhắm nhưng da mặt ngày càng xám đi... như chờ đợi cái phút “Ấy” đến. Nhưng kìa, tôi không tin vào mắt mình nữa. Cánh tay phải bà động đậy, từ từ dâng cao với bàn tay nhìn rõ những lóng, đốt xương cùng những mạch máu nhỏ li ti. Bàn tay ấy uốn éo như đang múa Chèo, rồi chụm lại chỉ còn ngón tay trỏ hướng lên trần nhà. Bà đang bắt “Quyết”. Đồng hành với nó, cánh tay trái ve vẩy, lúc ngả sang trái, lúc ngả sang phải như đang chèo đò. Cùng nhịp múa, miệng bà phát ra tiếng thanh: ơ, ơ, ơ... Tiếng hát chầu văn mà ngày bé tôi được xem những buổi Hầu Đồng ở đền hàng Quạt.
Cảnh tượng hãi hùng. Anh em chúng tôi, có người khóc réo lên:
- Ối mẹ ơi! Ối mẹ ơi! Mẹ bỏ chúng con rồi... cùng với bè đệm trầm trầm: Nam mô A Di Đà Phật thành một khúc tráng ca tiễn đưa Người, cùng thần Chết đi nhanh về cõi vô cùng.
Tay vẫn múa, miệng vẫn: ơ,ơ,ơ nhưng nét mặt mẹ tôi tỏ ra lo lắng, sợ hãi như nhìn thấy những âm binh về bắt bà, hay bà nhìn thấy rất rõ chân dung khủng khiếp của thần Chết??
Chúng tôi càng khóc to và niệm Phật nhanh hơn. Nó gần như đoạn kết của đêm 30 tết này: Mẹ tôi sẽ buông tay xuống. Im lìm chấp nhận cái Chết.
Ơ kìa, quả thực tay bà đã buông xuống. Bàn tay đã chắp lại trên mặt chăn bông. Vẻ mặt lấy lại sự thanh thản, mặt ửng hồng hơn trước. Xóa dần những vết nhăn của sự hoảng loạn trước cuộc Tử Ly. Chợt miệng bà mấp máy. Rồi chúng tôi đều nghe thấy câu đầu tiên sau khi “cấm khẩu”:
- Trời cho sống rồi. Trời cho sống rồi.
Kèm theo câu nói, bà dần dần mở mắt. Nhìn thấy các con khóc, bà còn nói:
- Trời cho sống rồi. Việc gì phải khóc.
Quả thực, miệng tôi vẫn: Nam mô A Di Đà Phật, nhưng có cảm giác rờn rợn trước thay đổi cực kỳ đảo ngược của mẹ tôi. Từ trạng thái lạ lùng “cấm khẩu” rồi ơ, ơ, ơ rồi lại nói được.
Chưa chắc chính mẹ tôi nói, mà có ai mượn xác, nói thay cho bà?? 10 phút sau trôi qua, mẹ tôi vẫn nằm, nhưng lưng đã tựa vào gối cao. Mắt bà nhìn chúng tôi một lượt. Bà nhìn chung quanh căn buồng. Bà nhìn xuống hốc tối gầm giường, rồi vụt một cái bà nhìn lên trần nhà. Chỗ đó ánh điện không lan tới, tạo một khoảng tối, mờ mờ ảo ảo thật trừu tượng, quái đản như tranh của danh họa Eduar Munch.
Mẹ tôi giơ cả hai tay xua đuổi, hình như bà nhìn thấy những Âm binh về bắt Bà. Và chỉ có mẹ tôi nhìn thấy. Còn chúng tôi không nhìn thấy gì - ngoài một góc tối huyền bí lạnh lùng, sờ sợ.
Tay xua đuổi, miệng bà hét to:
- Đi. Đi. Trời cho tôi sống rồi.
- Đi. Đi. Trời cho tôi sống rồi.
Cùng lúc đó, khoảnh khắc đó, lũ chó bên hàng xóm đồng loạt tru lên trong đêm đen như mực. Tôi nghe thấy Thắng, em rể, vì trong buồng đông người quá nên Thắng đứng ở sân. Thắng người to lớn bị kẻ nào đó bóp cổ kêu thảng thốt. Tôi vội chạy ra sân, cách xa tôi không đầy năm thước một con lợn trắng nhởn không biết ở đâu lại đương rúc ủi hàng rào, kêu eng éc, hòa nhịp với tiếng kêu the thé của con chim lợn đang đậu trên cành hồng nhà tôi. Bầu trời bỗng biến dạng. Xuất hiện những kẽ nứt xanh, xám nhỏ như tóc Mẹ tôi chạy suốt từ Bắc xuống Nam cả một khoảng trời rộng lớn, lóe trong vài giây phút, sau đó lại trở lại đêm tối mịt mùng.
Thắng nhờ có sức khỏe giẫy giụa, thoát được vòng tay siêu hình bóp cổ. Nhưng tiếp theo cảm giác sa sầm mặt mày ập đến, đầu óc đau như búa bổ. Sợ quá, Thắng nhảy ngay lên xe máy, phóng thẳng về nhà mình, không kịp nói với tôi lời nào. Lúc Thắng rời nhà, lập tức con chim lợn bay vút đi, vứt lại tiếng kêu ai oán. Con lợn trắng biến mất. Đến nhà Thắng cố leo lên tầng ba, thắp hương kêu cầu Cụ Tổ phù hộ. Sau đó thiếp đi, không biết gì nữa.
Sáng mồng một tết, mẹ tôi tỉnh lại hoàn toàn. Các con cháu cụ đến chúc tết như không có chuyện xẩy ra đêm 30.
Nhưng hai tháng sau, tới ngày giỗ bố tôi, mẹ tôi chăm chăm nhìn vào bức ảnh thờ ông. Bà ra dấu hiệu cho cô con gái út, thúc giục làm cơm cúng giỗ. Ngày giỗ họ hàng quê quán, cùng con cháu ra ăn giỗ, trong cả buổi sáng. Buổi chiều, mẹ tôi nằm chắp tay lên trán. Tóc bà vấn gọn. Tai đeo khuyên vàng. Môi phớt đỏ mầu hoa lựu. Hôm nay bà ăn trầu. Bà tự nhiên mặc chiếc áo dài Mông Tự màu tím mận. Nét mặt hân hoan và toại nguyện. Bà từ từ nhắm mắt. Tim bà ngừng đập trong sự yên nghỉ đời đời. Bà thọ 96 tuổi. Vậy hàng năm gia đình tôi chỉ duy nhất có một ngày giỗ. Sáng giỗ bố, chiều giỗ mẹ.
Sực nhớ quẻ bói Kinh Dịch “Địa Hỏa Minh Di” đã thực sự ứng nghiệm. Bà không qua khỏi mà sự sống chỉ kéo dài qua cái Tết. Mẹ tôi, đã chờ, chọn cái ngày gặp bố tôi trong ngày giỗ. Rồi sau đó ông bà cùng đi vào cõi Vĩnh hằng với cái áo dài Mông Tự mà bố tôi rất thích mỗi khi nhìn thấy mẹ tôi mặc.
N.Đ.G
(SDB15/12-14)
Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.
Gió từ đại dương lồng lộng thổi qua cửa sông, qua bãi cát trắng xoá rồi vỗ đập vào những tàu lá dài ngoằng của loài dừa nước, oà vỡ những thanh âm xạc xào.
Đúng sáu năm tôi không trở lại thành phố ấy dẫu rằng trong lòng tôi luôn luôn có một nỗi ham muốn trở lại, dù trong sáu năm tôi giấu kín trong lòng mình điều đó, chôn thật sâu trong suy nghĩ của mình, chẳng hề nói ra.
Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.
Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.
Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.
Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.
1Sau lần đi gặt thuê cho đồng bào dân tộc ở Vĩnh Thạnh về, tôi bị trận sốt rét nặng. Dai dẳng trở đi trở lại gần ba tháng mới khỏi. Những ngày sau đó, trong người thấy cứ nôn nao, bứt rứt.
Có thể cô gái ấy đã trồi lên từ thủy cung do thủy triều xuống quá nhanh. Một nửa thân hình của cô từ dưới eo trở lên, hoàn toàn khỏa thân nhô ra khỏi mặt nước.
Mặt trời như còn ngái ngủ. Cùng với cánh cò trắng từ đâu bay về sáng nay, tôi bần thần chờ đợi một điều gì đó. Nó mong manh và đằm thắm theo về với cơn gió lạnh. Như mặt trời vẫn thập thò, như đường về mệt mỏi, như hàng cây đìu hiu. Vừa gần gũi tưởng có thể ôm giữ được mà cũng vừa cách xa vời vợi.
Hôm qua nghe đài, có một cái tên giống hệt người thân của mình đã mất tích trong chiến tranh. Rồi một tên khác, kế tiếp một tên khác với hòm thư toàn những chữ số. Hai anh em tôi nhìn nhau. Đã biết bao lần anh em tôi nhìn nhau như vậy. Từ khi con bé thiên thần kia còn chưa biết khóc vì buồn.
ITiệc có vẻ sắp tàn. Nàng đứng lặng lẽ gần cửa ra vào đưa mắt bao quát căn phòng rộng. Đèn chùm sáng trắng. Nhạc êm dịu trong phòng hôn lễ đã giúp nàng tự tin hơn khi bước chân vào có một mình với bộ đồ xoàng xĩnh đang mặc.
Bây giờ thì Hồng sắp được gặp chị. Người chị mà suốt những năm tháng đi xa, ở đâu Hồng vẫn luôn nghĩ tới. Cứ mỗi lần như thế, một tình cảm thân thương choán ngập tâm hồn Hồng.
- Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rồ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.
Bác Hai đang ngồi trước mặt tôi, lặng im như pho tượng. Đôi mắt bác đăm đăm không chớp, nhìn về một cõi xa xăm mà tôi đoán chừng là ở nơi ấy chắc chắn có những kỷ niệm vui buồn về người em trai của bác, chính là cha tôi.
Cuối năm, Đài truyền hình liên tục thông báo gió mùa đông bắc tràn về, miền Tây Bắc nhiệt độ 00C, khu vực Hà Nội 70C...
Tôi tạm xa Hà Nội một tuần. Cũng chẳng biết là phải xa hay được xa nữa. Bố mẹ phái: - Cho con Hạ đi ăn giỗ!
Tặng anh Hữu Ngọc, anh Đoàn, Lành - Ngọc Anh. Tưởng nhớ chị TâmHảo không có giấy mời. Có thể những người bạn cũ của anh ở Huế cũng đã nghỉ hưu cả rồi, hoặc giả họ bận trăm công ngàn việc nên cũng chẳng nhớ anh ở đâu mà tìm... Song điều ấy không quan trọng.
Chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc, nhận tấm thẻ thương binh, tôi trở về quê nhà. Để bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình, tôi dã dành tất cả số tiền chính sách nhận được mở một quầy sách báo. Khách hàng của tôi khá đông.
Ông Biểu đột ngột nằm xuống. Tưởng như mọi cái đâu vào đấy. Như linh cảm trước, cuối năm con hổ, ông Biểu đã sắm cỗ áo quan dạ hương thơm nức. Xe cộ cần bao nhiêu chẳng có. Mọi thứ nếu muốn, chỉ sau một tiếng “alô” là tha hồ.