Sự dịu dàng nữ tính nhìn từ góc độ văn hoá của tập truyện ngắn “Giao thừa”

15:19 10/04/2009
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

Văn hoá có thể được phản ánh trong tác phẩm văn học. Mặt khác, cũng chính văn hoá đã chi phối quan điểm tư tưởng của người viết, dù ý thức hay vô thức. Thậm chí, để khẳng định được tài năng văn bút của mỗi nhà văn, tính văn hoá trong mỗi tác phẩm văn học là yếu tố không thể bỏ qua. Đặc biệt, văn hoá người Việt Nam mang những nét đặc trưng riêng biệt khó trộn lẫn nên khi đi vào văn chương nó đậm đà hồn sắc dân tộc Việt.

Ở đây, chúng tôi muốn bàn đến tập truyện ngắn “Giao thừa” của một tác giả nữ rất trẻ, đó là Nguyễn Ngọc Tư. Đến với văn chương mới một vài năm gần đây, nhưng ngay từ khi mới xuất hiện, Nguyễn Ngọc Tư đã gây một tiếng vang đối với bạn đọc và một “cú sốc” cho những người trong giới phê bình lẫn sáng tác. Bởi họ không tin rằng một “cô bé”, lúc ấy Nguyễn Ngọc Tư dường như mới hơn hai mươi tuổi, chưa trải qua trường lớp đào tạo văn chương bài bản nào, lại viết “có hồn” đến như vậy. Nhưng dù nghi hoặc, cuối cùng Nguyễn Ngọc Tư cũng đã thuyết phục mọi người không phải bằng những giải thưởng đâu đó mà bằng chính những sáng tác ngày càng “nặng ký” của mình. Vậy điều gì đã khiến cô thành công trong những trang viết? Là tài năng thiên bẩm? Là sự thông minh sáng tạo? Là sự nghiêm túc trong lao động nghệ thuật? Tất cả. Nhưng ngoài ra, để có được sự thành công, chúng tôi nhận thấy bên cạnh những điều đó còn có một vốn văn hoá mà Nguyễn Ngọc Tư đã tinh tế và cần mẫn bồi đắp trong tâm hồn mình. Nên dù trẻ tuổi, văn của chị vẫn ngồn ngộn chất sống, đủ sức đứng được trong lòng người đọc.

Tập tuyện ngắn “Giao thừa” gồm 17 truyện. Có thể dễ dàng nhận thấy đây là những câu chuyện bé, nhỏ, gọn ghẽ như những nhát cắt của mỗi số phận ai đó mà tác giả vô tình biết được. Nhưng nhát cắt nào cũng sắc. Vì vậy dễ gây cảm giác đau. Đau cho nhân vật. Làm đau cả người đọc. Bởi Nguyễn Ngọc Tư viết bằng một tâm hồn văn hoá Việt. Và người đọc cũng mang một tâm hồn như vậy mà làm kẻ tri âm.

Bằng một lối văn trầm, rù rì, truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư hầu như đều nói về nhân vật nữ. Như một mẫu số chung, nhân vật nữ của chị lúc nào cũng toát lên sự dịu dàng - một sự dịu dàng rất nữ tính. Có thể thấy được điều này qua các nhan đề truyện, nó cũng đã gợi lên cho người đọc cái gì đó mang mang, khó tả: Bởi yêu thương, Cái nhìn khắc khoải, Cuối mùa nhan sắc, Làm má đâu có dễ, Làm mẹ... Trong văn hoá Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng: “Gắn liền với cuộc sống nông nghiệp và nguyên lý âm dương là khuynh hướng đề cao nữ tính với hàng loạt nữ thần: Bà Mẹ Đất, Bà Mẹ phủ, Tứ phủ, 12 Bà Mụ... Nho giáo và chế độ phụ quyền cũng không tiêu diệt được vai trò của phụ nữ Việt Nam: Phong trào thờ Mẫu Liễu bùng lên chính vào lúc nho giáo đang hưng thịnh nhất. Ở Việt Nam, người phụ nữ cũng có thể đứng trước bàn thờ tổ tiên thay chồng con”. (Trần Ngọc Thêm - Cơ sở văn hoá Việt Nam). Trong giáo trinh “Cơ sở Văn hoá Việt Nam” do Nguyễn San - Phan Đăng chủ biên cũng cho rằng văn hoá Việt Nam” đề cao nữ tính, âm mạnh hơn dương”. Như vậy, yếu tố “tính nữ” trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, đứng ở góc độ văn hoá, đó chính là bản sắc văn hoá dân tộc Việt được kế thừa.

Như rất nhiều cây bút nữ khác, ngay cả những cây bút nam đôi khi cũng vậy, yếu tố tính nữ trong văn Nguyễn Ngọc Tư là một điều rất đỗi bình thường. Dường như sự dịu dàng nữ tính, như một nhà nghiên cứu văn học đã gọi “Thiên tính nữ”, đã ăn sâu vào tâm thức người Việt, nên dẫu không là nhà văn, con người ta cũng đã mang yếu tố tính nữ trong mình. Và nhà văn, anh là những người khai thác tâm tính này như một nét tự nhiên trong đời sống. Người viết - người đọc gặp gỡ nhau, âu cũng bởi từ tâm thức văn hoá Việt mà ra cả.

Từ những câu chuyện của Nguyễn Ngọc Tư, thế giới nhân vật của cô sao mà đoan nặng trĩu, là thân phận nữ giới, xưa nay, ai cũng nhận rằng khổ, rằng bất hạnh. Nhưng cái khổ, cái bất hạnh kia phải từ một nguyên nhân nào đó mà theo quan niệm người đời là phải “xác đáng” kia, thì ở đây, những nhân vật nữ ấy lại buồn, đa đoan bởi do chính cái sự nữ tính của phái yếu mà ra. Nguyễn Ngọc Tư viết: “Bởi yêu thương...”, lẽ ra, yêu thương phải đem đến (và nhận được) hạnh phúc chứ? Thì ở đây, “Bởi yêu thương” mà khổ. Như nhân vật Điệp trong “Bởi yêu thương” là một cô đào hát quá thì, bệnh tật, hết nợ duyên sân khấu, hết luôn cả những tràng hoa tay vỗ. Sáu Tâm yêu thương cô, cũng là một người phụ kéo màn trong đoàn hát ngày xưa, giờ cụt hai chân sau một tai nạn. Âu thế cũng là hạnh phúc. Nhưng San, một cô bé tiếp viên nhà hàng, mê tiếng hát của cô đào Điệp năm xưa, lại là học trò của Sáu Tâm bây giờ, cũng thầm yêu trộm nhớ Sáu Tâm. Lúc này, “thiên tính nữ” trong nhân vật Điệp được bộc lộ rõ nét khi tâm sự cùng San: “Chị em mình còn một chuyện giống nhau nữa, đố San biết, tụi mình cùng thương anh Sáu, thương lắm, phải không?”. Nghe như Thúy Kiều - Thuý Vân vậy. Rồi nữa: “Nếu không chê Tâm tàn tật thì bao giờ chị đi cho chị gửi lại. Em làm lại cuộc đời đi, Tâm rộng lòng lắm, không chấp nhứt chuyện này nọ đâu. Tâm dễ tánh. Mặc gì cũng được, ăn gì cũng xong. Con người đàng hoàng, nghệ sỹ mà đàng hoàng, không phù phiếm, buông thả. Kiếm người tin được không phải dễ đâu, San”. Những câu nói đó chứa chan một sự chịu đựng, chịu đựng đến khủng khiếp, Nguyễn Ngọc Tư viết: “đôi khi người ta vì yêu mà rứt ruột lìa xa người mình yêu”. Ai đó nói rằng: phụ nữ giỏi chịu đựng hơn đàn ông?

Ở những trang khác, Nguyễn Ngọc Tư luôn để cho nhân vật mình sống bằng nữ tính quá mạnh. Hay chính cái tính nữ ấy đã trỗi dậy trong cây bút của cô? Một đào Hồng khắc khoải trong “Cuối mùa nhan sắc”. Một cô Đậm quê quê quá lứa lỡ thì tồi tội. Hay chị Hảo nấp mặt vô mé quán ngó người mình yêu tha thiết với tình cũ của anh... Dù buồn, dù đau, dù xa xót bao nhiêu đi chăng nữa thì những nhân vật nữ của Nguyễn Ngọc Tư cũng không phá cách, không quẫy đạp vẫy vùng như rất nhiều nhân vật nữ của các nhà văn nữ hiện nay. Họ vẫn dịu dàng, có một cái gì đó dường như nhẫn nại, cam chịu đến tận cùng. Nên các nhân vật ấy xuất hiện trước mắt người đọc không từ trang sách, mà như từ bậu cửa bước ra, từ con xuồng chống xuống, từ những nỗi chát chua đời họ. Phải chăng đó là từ cội nguồn văn hoá dòng Việt xưa, người phụ nữ Việt Nam giỏi nhẫn nhục và cam chịu?

Văn hoá của dân tộc Việt rất trân trọng người Mẹ. Rất nhiều đền thờ Mẹ Tổ hiện nay còn lưu lại điều đó. Và Văn Nguyễn Ngọc Tư cũng không thoát ra khỏi tư tưởng văn hoá cội nguồn này. Tập “Giao thừa” của chị có rất nhiều truyện viết về nhân vật Mẹ, tiêu biểu có thể thấy: “Làm má đâu có dễ”, “Làm mẹ”... Một đằng có con bỏ đi, đến lúc gặp lại, theo thói quen, đứa con chỉ gọi là “chế”, là chị, dưng dưng, bình thản. Một đằng không có con, phải mướn người ta đẻ giùm. Đều là mẹ, đều phải cảm nhận nỗi đau của một người mẹ. Dù thế nào đi chăng nữa thì “những người có tình có nghĩa, dễ gì bỏ được nhau”. Không bỏ được nhau nên cứ ám ảnh về một nỗi đau thân phận. Với văn Nguyễn Ngọc Tư, nhân vật người mẹ day đi day lại thành một hình tượng khó mờ. Phải chăng từ tâm thức cô, Văn - Hoá - Mẹ như một dòng chảy không thể thiếu trong ngòi bút của mình?!

Không thể tách đời sống ra khỏi văn hoá. Đặc biệt, đối với văn học, là một bộ phận của văn hoá thì sự gắn bó tác động qua lại là điều không thể phủ nhận. Mỗi nhà văn khi sáng tác, bên cạnh vô vàn những điều cần và dù để hình thành nên một phong cách, để cho ra đời một tác phẩm, thì vốn văn hoá là một điều rất quan trọng. Nguyễn Ngọc Tư đã có được điều đó, nên tập “Giao thừa” của cô đã được nhiều người đón nhận. Tất nhiên, vốn văn hoá của một người cầm bút phong phú và đa dạng vô cùng. Nhưng ở trong giới hạn một khía cạnh rất nhỏ của tập truyện này, chúng tôi muốn nói đến một nét văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam, đó là khuynh hướng đề cao nữ tính, một khuynh hướng xuất phát từ sự gắn liền với cuộc sống nông nghiệp và nguyên lý âm dương của dân tộc Việt.

Đ.
H
(200/10-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ THỜI ĐÔN

    Trước tác của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819-1870) lâu nay mới được dịch thuật, giới thiệu ít nhiều ở phần thơ.

  • PHẠM XUÂN DŨNG    

    (Nhân đọc tập thơ “Hóa vàng đi Tường” của Phạm Nguyên Tường, Nxb. Thuận Hóa, 2021)

  • HỒ THẾ HÀ  

    Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) là một tác giả/ hiện tượng văn chương, báo chí và văn hóa ở Việt Nam đầy ấn tượng của thời hiện đại, nhưng trước tiên, ông được biết đến với tư cách một nhà thơ từ thuở Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam (1942).

  • TÔN THẤT DUNG

    Nghe tin nhà văn, nhà thơ Trần Hữu Lục qua đời, không hiểu sao trong tâm tưởng tôi dường như có ai đọc những câu ca từ trong bài Có một dòng sông đã qua đời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn!

  • LÊ THỊ ĐỨC HẠNH

    Mộng Sơn là một trong số hiếm hoi những nhà văn nữ xuất hiện từ trước Cách mạng tháng Tám, sau này vẫn tiếp tục bền bỉ đóng góp cho nền văn học mới bằng những tác phẩm vừa phải, khiêm tốn, biểu lộ một tình cảm chân thành, một tấm lòng nhân ái.

     

  • NGUYỄN THANH TRUYỀN

    Ấn tượng của tôi về Nguyên Hào bắt đầu từ một đêm thơ gần 20 năm trước. Lần đầu tiên đọc thơ trước đám đông, dáng vẻ vừa bối rối vừa tự tin, anh diễn giải và đọc bài “Rượu thuốc”: “Ngâm ly rượu trong/ Thành ly rượu đục/ Đắng tan vào lòng/ Ngọt trong lời chúc”.

  • PHẠM XUÂN DŨNG  

    (Đọc tập sách “Bên sông Ô Lâu” của tác giả Phi Tân, Nxb. Lao Động, 2021)

  • PHẠM PHÚ PHONG   

    Nguyên Du là sinh viên khóa 5 (1981 - 1985) khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là Đại học Khoa học).

  • PHONG LÊ    

    Thanh Tịnh (12/12/1911 - 17/7/1988), trước hết là một nhà Thơ mới, tác giả tập thơ Hận chiến trường (1936) với hai bài Mòn mỏi Tơ trời với tơ lòng được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam cùng với lời bình.

  • LÊ HỒ QUANG   

    Dưới “áp lực” của tiêu đề, khi đọc Thỏa thuận, gần như ngay lập tức, trong óc tôi nảy sinh hàng loạt câu hỏi: Thỏa thuận nói về cái gì?

  • VÕ QUÊ    

    Từ trước đến nay chúng tôi chỉ được đọc và trân quý thơ văn của nhà thơ Lê Quốc Hán qua những bài viết đăng trên các tạp chí, trên mạng thông tin, báo điện tử mà chưa được trực tiếp cầm trên tay một cuốn sách nào của ông.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Đọc “Phùng Quán & Tôi” của Xuân Đài, Nxb. Phụ nữ Việt Nam, 2020) 

  • HỒ THẾ HÀ   

    Hồng Nhu xuất phát nghiệp bút của mình bằng văn xuôi. Văn xuôi gắn bó với đời như một duyên mệnh.

  • YẾN THANH  

    Rất nhiều nhà văn thành danh hiện nay, sau những thành công trên trường văn trận bút, đột nhiên họ làm bạn đọc bất ngờ bằng cách chuyển hướng sang viết cho thiếu nhi, như trường hợp của Nguyễn Lãm Thắng, Nguyễn Đình Tú, Phong Điệp, Dương Thụy, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Đỗ Bích Thúy…

  • ĐỖ THU THỦY  

    1.
    Trường ca Ngang qua bình minh là ấn phẩm thứ ba của nhà thơ Lữ Mai, sau hai tập tản văn và ký sự: Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi viết về đề tài biển đảo.

  • NGƯỜI THỰC HIỆN:

    Lê Thị Mây là một cô gái cực kỳ ít nói. Nhà thơ chi thích lặng lẽ nhìn, lặng lẽ nghe, lặng lẽ suy ngẫm... Và nếu như phải nói gì trước đám đông thì đó là một "cực hình" - Kể cả đọc thơ mình - Mây vẫn như vậy.

  • NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG     

    Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng (1921 - 1988).

  • LÊ NGUYỄN LƯU

    Trong nền văn học đời Đường, thơ ca có một vị trí đặc biệt, trội hơn cả phú đời Hán, từ đời Tống, khúc đời Minh...

     

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ  

    (Đọc “Miền quê thơ ấu” - Hồi ký của Thanh Tùng, Nxb. Thuận Hóa, 2020)