Stephen William Hawking, ngôi sao vẫn bay trong vũ trụ

09:02 01/05/2018

PHẠM ĐĂNG  

Thế giới vừa vĩnh biệt một thiên tài: Stephen William Hawking.
Ngày sinh của Hawking (8 tháng 1 năm 1942) đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo Galilei (8 tháng 1 năm 1642). Ông qua đời (14/3/2018) vào ngày số Pi, cũng là ngày sinh của Albert Einstein (14 tháng 3 năm 1879).

Sống phần lớn cuộc đời trong cảnh tật nguyền vì căn bệnh thoái hóa thần kinh hiếm gặp, thiên tài vật lý Stephen Hawking vẫn để lại cho nhân loại những khám phá vĩ đại và những công trình có tính lan tỏa, làm thay đổi thế giới. Năm Hawking 21 tuổi, người ta chẩn đoán ông mắc bệnh thần kinh vận động và khi đó các bác sĩ cho rằng ông chỉ sống thêm được 2 năm nữa. Ấy nhưng ông đã chiến đấu để sống, sáng tạo để sống và công hiến cho khoa học thêm 50 năm nữa.
Ông không chỉ là một nhà khoa học vĩ đại mà còn là một người đàn ông phi thường. Cuộc sống của ông đã truyền cảm hứng cho mọi người trên khắp thế giới.



Vị thứ cuối lớp và căn bệnh khắc nghiệt

Hawking sinh tại Oxford, Anh. Gia đình ông có một cuộc sống thanh đạm trong ngôi nhà chung lớn, huyên náo và tồi tàn. Tuy vậy, gia đình lại rất đề cao giá trị của việc học hành. Cha ông muốn con trai mình học trường Westminster danh giá, nhưng Hawking lại bị ốm vào đúng ngày thi lấy học bổng, và đành tiếp tục học ở St Albans. Cũng thật may, ở đó Hawking tạo được một nhóm bạn thân thường cùng chơi bài, làm pháo hoa, các mô hình phi cơ và tàu thuyền, cũng như thảo luận về Cơ đốc giáo và năng lực ngoại cảm. Từ 1958, với sự giúp đỡ của thầy dạy toán Tahta, họ lắp ráp một máy tính với các linh kiện lấy từ đồng hồ, một máy tổng đài điện thoại cũ và các thiết bị tái chế khác.

Thuở nhỏ ông không hề là một học sinh xuất sắc do ông không chú tâm lắm vào chuyện học. Đến 9 tuổi, vị thứ của ông chỉ đứng ở cuối lớp, lên các lớp trên có sự tiến bộ hơn nhưng không nhiều. Mặc dù vậy, nhưng cả giáo viên và bạn bè đều thấy được tố chất thiên tài của ông, và đặt cho ông biệt danh “Einstein”. Theo thời gian, ông ngày càng chứng tỏ năng khiếu đáng chú ý đối với các môn khoa học tự nhiên, và nhờ thầy Tahta khuyến khích, quyết định học toán tại đại học; trong lúc cha ông lại khuyên ông học y vì lo ngại rằng không có mấy việc làm cho một sinh viên ngành toán ra trường. Theo nguyện vọng của cha, 17 tuổi, Hawking tới học dự bị ở trường cha ông từng học là University College (thuộc Đại học Oxford). Khi đó tại trường không có ngành toán, Hawking quyết định học vật lý và hóa học. Trong 18 tháng đầu tiên ông thấy chán học và cô đơn: ông ít tuổi hơn phần lớn sinh viên, và thấy việc học hành “dễ một cách kỳ cục”. Song thói quen học hành không ấn tượng khiến ông rất khó khăn ở các kì thi cuối kỳ. Trong khi đó, ông cần phải có một bằng danh dự hạng nhất để đăng ký học tại ngành vũ trụ học tại Đại học Cambridge. Kỳ thi diễn ra căng thẳng, tại buổi vấn đáp khi được yêu cầu mô tả kế hoạch tương lai của mình, ông trả lời “Nếu các vị trao cho tôi hạng Nhất, tôi sẽ tới Cambridge. Nếu tôi nhận hạng Nhì, tôi sẽ ở lại Oxford, vì vậy tôi hi vọng các vị cho tôi hạng Nhất”. Kết quả ông được hạng Nhất ngoài mong đợi. Berman bình luận rằng giám khảo “đủ thông minh để nhận ra rằng họ đang nói chuyện với ai đó thông minh hơn nhiều phần lớn số người còn lại”.

Stephen Hawking năm 1985 tại Đại học Cambridge. Ảnh: Internet


Quá trình nghiên cứu sinh tiến sĩ của Hawking thực sự khó khăn. Ban đầu ông thấy mình chưa được trang bị đầy đủ kiến thức toán học để nghiên cứu thuyết tương đối rộng và vũ trụ học; ông cũng vướng phải những khó khăn trong vận động kể từ năm cuối ở Oxford, sau một cú ngã cầu thang, tiếng nói của ông trở lên lắp bắp; gia đình ông nhận thấy sự thay đổi này khi ông nghỉ kì Giáng Sinh và đưa ông đi khám bệnh. Năm Hawking 21 tuổi, người ta chẩn đoán ông mắc bệnh thần kinh vận động và khi đó các bác sĩ cho rằng ông chỉ sống thêm được 2 năm nữa. Ấy nhưng ông đã chiến đấu để sống, sáng tạo để sống và cống hiến cho khoa học thêm 50 năm nữa.

Vào cuối thập niên 1960, năng lực thể chất của Hawking lại suy giảm một lần nữa: ông bắt đầu phải dùng nạng và thường xuyên hủy các buổi giảng. Khi dần mất khả năng viết, ông phát triển các phương pháp thị giác để bù đắp, bao gồm nhìn các phương trình theo cách hiểu hình học. Nhà vật lý Werner Israel sau này so sánh những kỳ tích đó với việc Mozart sáng tác toàn bộ bản giao hưởng trong đầu. Mặt khác Hawking lại tỏ ra độc lập một cách mãnh liệt và không bằng lòng chấp nhận giúp đỡ hay chịu nhượng bộ vì sự tàn tật của mình. Hawking ưa thích được người khác xem “trước hết như một nhà khoa học, thứ đến như một nhà văn phổ biến khoa học, và, trong mọi cách mà nó đáng kể, một người bình thường với cùng những ham muốn, nghị lực, ước mơ và tham vọng như những người xung quanh.”

Những đóng góp thiên tài cho khoa học

Cuộc đời khoa học của ông là những khám phá mới hết sức thiên tài về vũ trụ. Thuyết kỳ dị hấp dẫn và tiên đoán lý thuyết hố đen phát ra bức xạ của ông đã gây được tiếng vang trong giới học thuật. Đặc biệt Hawking là người khởi xướng nền khoa học vũ trụ dựa trên sự thống nhất giữa thuyết tương đối tổng quát và cơ học lượng tử, đồng thời diễn giải nhiều hiện tượng, sự việc thế giới một cách thú vị theo cơ học lượng tử. Dấu ấn ông để lại trong năm 1970 là “những bất thường trong suy sụp trọng lực”. Các nhà vật lý nghiên cứu thuyết hấp dẫn của Einstein trong đó nhấn mạnh tới những điểm bất thường tại những nơi thời gian bị cong vô tận, nhưng họ không thể khẳng định chắc chắn hiện tượng trên có xảy ra hay không. Nhà khoa học Roger Penrose đã chứng minh rằng những bất thường này được hình thành từ các hố đen. Penrose và Stephen Hawking đã áp dụng kết luận trên với toàn vũ trụ và chỉ ra rằng thuyết hấp dẫn của nhà bác học Einstein nhằm dự đoán sự bất thường trong quá khứ xa xôi của loài người - chính là vụ nổ Big Bang.

Năm 1971, Hawking khám phá ra Định luật thứ 2 của Cơ học hố đen. Ông chỉ ra rằng chân trời sự kiện (biên giới ngoài) của hố đen sẽ không bao giờ thu hẹp lại. Hawking sau đó cũng phát hiện ra một loại bức xạ phát ra từ hố đen, loại bức xạ này được đặt tên là “bức xạ Hawking”. Theo ông, các hố đen rất nóng, trái ngược với vật lý truyền thống nhận định hố đen không thể phát ra nhiệt.

Năm 1974 - 1975, ông nhìn nhận “Cách hố đen biến mất”: Không cái gì có thể thoát khỏi hố đen, ông sử dụng thuyết lượng tử để chỉ ra rằng các hố đen phát tán nhiệt và rốt cuộc là biến mất. Những hố đen kích cỡ nhỏ hơn sẽ bốc hơi nhanh hơn và trong thời kỳ gần cuối của sự tồn tại, những hố đen này sẽ phát nhiệt ở tốc độ phi thường.

Năm 1981 ông đề xuất rằng thông tin của một hố đen bị mất không thể phục hồi khi một hố đen bốc hơi. Nghịch lý thông tin hố đen này vi phạm nguyên lý cơ bản của cơ học lượng tử, và dẫn tới nhiều năm tranh cãi, trong đó có cái gọi là “Chiến tranh Hố Đen” giữa ông với Leonard Susskind và Gerard ‘t Hooft.

Năm 1982, ông quan tâm đến cách các ngân hà mở rộng. Thuyết vũ trụ học phổ quát chỉ ra rằng một vũ trụ mới hình thành đều đi qua thời kỳ phát triển nhanh ngay sau vụ nổ Big Bang. Hawking là người đầu tiên chỉ ra cách những dao động lượng tử - biến động rất nhỏ trong quá trình phân bố vật chất và chính giai đoạn phát triển nhanh chóng sẽ làm tăng số lượng của các ngân hà trong vũ trụ. Chúng bắt đầu từ một biến thể nhỏ xíu hình thành trong cấu trúc vũ trụ vì lực hấp dẫn kết nối vật chất lại với nhau. Những bản đồ về bầu trời trong thời gian gần đây đã tình cờ phát hiện những ánh hồng mờ nhạt của vụ nổ Big Bang tiết lộ các biến thể như trong cuộc nghiên cứu của nhà vật lý thiên tài Hawking.

Năm 1983: Chức năng sóng của vũ trụ. Ông áp dụng khái niệm lực hấp dẫn lượng tử Euclid vào hố đen trong quá trình nghiên cứu với nhà khoa học Jim Hartle. Về mặt lý thuyết, họ đã đưa ra thuyết “chức năng sóng của vũ trụ” có thể được sử dụng để tính toán các đặc tính của vũ trụ xung quanh chúng ta. Họ xuất bản một mô hình, được gọi là trạng thái Hartle-Hawking. Mô hình này đề xuất rằng trước kỷ nguyên Planck, vũ trụ không có biên trong khôngthời gian; trước Vụ Nổ Lớn, thời gian không tồn tại và khái niệm về một sự khởi đầu của vũ trụ do đó là vô nghĩa.

Năm 1993 ông đồng biên tập một cuốn sách về hấp dẫn lượng tử Euclid với Gary Gibbons, và công bố một tuyển tập các bài viết của ông về hố đen và Vụ Nổ Lớn. Năm 1994 ở Viện Newton thuộc Cambridge, Hawking và Penrose trình bày một loạt sáu bài giảng, được in lại năm 1996 dưới tên “Bản chất của Không gian và Thời gian”. Hawking tiếp tục việc viết sách khổ biến khoa học, ấn hành “Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ” năm 2001, và “Lược sử thời gian”… Từ 2006 trở đi Hawking phát triển một vũ trụ học “trên-xuống”, rằng vũ trụ không phải có một trạng thái ban đầu duy nhất mà là nhiều trạng thái, và do đó là không thích hợp để hình thành một lý thuyết tiên đoán hình dạng hiện tại của vũ trụ từ một trạng thái ban đầu đặc biệt nào. Nền vũ trụ học này thừa nhận rằng hiện tại “lựa chọn” quá khứ từ sự chồng chập của nhiều lịch sử khả hữu. Khi khẳng định như vậy, lý thuyết đã đề xuất một giải pháp khả dĩ cho câu hỏi về một vũ trụ điều chỉnh chặt chẽ.

Giáo sư Hawking thử nghiệm cảm giác không trọng lực trên một chiếc máy bay, tháng 4/2007


Hawking từng khẳng định rằng mình “không tín ngưỡng theo nghĩa thông thường” và ông tin rằng “vũ trụ được vận hành bằng các định luật khoa học. Các định luật đó có thể được Chúa Trời ban bố, nhưng Chúa không can thiệp để phá vỡ chúng” . Năm 2011, Hawking tuyên bố: “Không có Chúa. Không ai tạo nên vũ trụ và không ai định vận mệnh chúng ta.”

Tại Hội nghị Zeitgeist do Google tổ chức năm 2011, Hawking nói rằng “triết học đã chết”. Ông tin rằng các triết gia “không bắt kịp với những tiến bộ khoa học hiện đại” và rằng các nhà khoa học “đã trở thành người mang ngọn đuốc khám phá trong cuộc truy tầm tri thức của chúng ta.” Ông nói rằng các vấn đề triết học có thể được khoa học trả lời, đặc biệt là những lý thuyết khoa học mới “dẫn chúng ta tới một bức tranh mới và hết sức khác biệt về vũ trụ và vị trí của chúng ta trong nó”…

Lần xuất hiện cuối cùng của Hawking là khi ông gửi thông điệp cuối cùng, về những gì xảy ra trước vụ nổ Big Bang, ở thời điểm sơ khai của vũ trụ. Trò chuyện với người đồng nghiệp, nhà vật lý Neil de Grasse Tyson, ông Hawking nhắc đến “giả thuyết không giới hạn”: “Hãy tua trở lại đủ xa (khoảng 13,8 tỷ năm về trước), và toàn bộ vũ trụ sẽ co lại bằng kích thước của một nguyên tử”. Mọi thứ khi đó tồn tại trong một điểm dị thường. Bên trong điểm vô cùng đặc và nhỏ này, các quy luật vật lý và thời gian mà con người biết đều không hoạt động. Nói cách khác, thời gian không hề tồn tại trước vụ nổ Big Bang. Thay vào đó, mũi tên thời gian càng co lại vô hạn khi vũ trụ càng trở nên ngày càng nhỏ hơn, không bao giờ đạt tới một điểm khởi nguyên rõ ràng. “Những sự kiện trước Big Bang đơn giản không được xác định, bởi vì không có cách nào để đo lường được những gì xảy ra khi đó”. Bởi vì những sự kiện này không có hệ quả có thể quan sát được nên chúng ta cũng có thể loại bỏ chúng ra khỏi lý thuyết này, và nói rằng thời gian bắt đầu từ lúc xảy ra Big Bang”.

Ngọn lửa Hawking

Khi còn sống, ông thường xuyên nhìn lên các vì sao, và khi ông mất, người ta tin là ông đang bay trong vũ trụ.

Cuộc đời của Stephen Hawking là câu chuyện kì diệu về một người đàn ông phải đối mặt với vô số những khó khăn trở ngại để trở thành một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất thế giới. Cách thức mà ông đối mặt với số phận khắc nghiệt đã khiến nhiều người kính phục. Người ta thường nhắc đến các quan điểm của ông, như là những cảm hứng sống, chẳng hạn: “Thành tựu lớn nhất của loài người đạt được nhờ sự giao tiếp, và thất bại lớn nhất của loài người là do không giao tiếp. Mọi chuyện không cần phải như thế. Những hi vọng lớn nhất của chúng ta có thể trở thành hiện thực trong tương lai. Với sự có mặt của công nghệ trong tầm tay chúng ta, mọi khả năng là không biên giới. Tất cả những gì chúng ta cần làm là đảm bảo rằng chúng ta sẽ tiếp tục giao tiếp”; “Sự thông minh là khả năng thích ứng với những thay đổi”; “Sự hung bạo, tính xấu nhất của con người, sẽ phá hủy nền văn minh nhân loại”…

P. Đ
(SHSDB28/03-2018)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THU TRANG (Pháp)Vài tháng nay ở Pháp đã rộn ràng xảy ra nhiều chuyện đáng để chúng ta suy nghĩ. Có lẽ trước hết là việc chiếc tàu Erika chở dầu đã bị vỡ hầm chứa ngoài khơi, biển Bretagne vùng Tây nước Pháp. Một đại nạn! Dầu đã bị sóng đưa vào bờ làm đen bẩn hầu hết các bờ biển, bãi tắm nổi tiếng.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSakuya là vị nữ thần cực kỳ xinh đẹp của xứ mặt trời mọc. Nàng là người đầu tiên tự tay gieo hạt giống cây anh đào trên núi Phú Sĩ. Mùa xuân hoa anh đào nở, đẹp cái đẹp lộng lẫy mê hồn của nàng. Bởi thế, người Nhật gọi hoa anh đào là Sakura - đọc trại từ Sakuya. Ngày nay, hoa anh đào đã có nhiều loại và mọc nhiều nơi, nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa anh đào ở núi Phú Sĩ.

  • VŨ LÊ THÁI HOÀNGTrong ánh nắng vàng rực tuyệt đẹp, giữa một New York hối hả, tấp nập, tua tủa nhà chọc trời, kiêu hãnh hiện ra bóng hình một phụ nữ khổng lồ tay cầm ngọn đuốc cháy sáng soi đường vào Tân Thế Giới.

  • ĐẶNG THỊ HẠNHMùa rét năm ấy ở Paris đã không có tuyết. "Một điều rất đặc biệt", ông Xuân Thủy nói với tôi như vậy khi tôi đi dạo với ông trong khu vườn bao quanh một cơ quan của Đảng Cộng sản Pháp dành riêng cho phái đoàn thương lượng của ta ở Paris .

  • HÀ PHẠM PHÚTôi chọn cái tựa trên cho bài viết một phần vì tôi bị ám ảnh bởi bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ của Kim Dung và bài của Quách Phong, một nhà nghiên cứu trẻ công tác tại đài phát thanh truyền hình châu Đại Lý - viết về chuyến thăm Đại Lý của nhà văn rất nổi tiếng này.

  • VÕ QUANG YẾNNúi cao cũng có đường trèo,Đường đi hiểm nghèo cũng có lối di.                                                Ca dao

  • VÕ QUANG YẾNNguyễn Hải Đang, 20 tuổi xuân xanh, xúng xính trong bộ y phục mới tinh trường Bách Khoa Ecole Polytechnique, thường được gọi tắt là X.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGKathmandu là kinh đô của vương quốc Nepal, nằm dưới chân Hy mã Lạp sơn. Là thành phố của tôn giáo và nghệ thuật, của nghi thức và lễ hội, của cổ kính và hiện đại, của thánh thiện và tâm linh, của suy tư và khát vọng, của du lịch và mộng mơ, của nắng gió và tuyết. Ngày nay, Kathmandu còn là thành phố của thanh bình và chiến tranh.

  • PHẠM THỊ ANH NGABài này nhằm giới thiệu một vài nét về diện mạo thi ca Pháp và một số hoạt động liên quan đến thơ trong xã hội Pháp những năm gần đây.

  • ĐINH CƯỜNGViện Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg, Paris vừa chấm dứt cuộc triển lãm qui mô, hàng trăm bức tranh của một họa sĩ lẫy lừng, bi thảm nhất thế kỷ hai mươi: Amedeo Modigliani.

  • ĐẶNG TIẾNNước Pháp có những thành phố nhỏ, lừng danh nhờ một sinh hoạt văn hoá. Ví dụ như Cannes, Deauville với những Đại Hội Điện Ảnh. Hay Angoulême nổi tiếng từ 30 năm nay với truyền thống Festival Quốc Tế Truyện Tranh BD, do chữ Bande Dessinée viết tắt, có nghĩa là băng hoạt họa (strip cartoon). Thành phố lịch sử với năm vạn dân, cách Paris hơn 400 km về phía Tây Nam, từ ngày 23 đến 26 tháng 1-2003, trở thành trung tâm thế giới về nghệ thuật Truyện Tranh BD, lần thứ 30.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP                         Ghi chépMột chiều cuối đông năm ngoái tại góc Quán Cũ 25 Phan Đình Phùng, khi biết chúng tôi chuẩn bị chuyến khảo sát văn hóa tại Nhật Bản, giáo sư Đại học ngoại ngữ Tokyo Kawaguchi đề nghị chúng tôi nên bố trí kế hoạch đến Nhật vào mùa xuân để còn kịp ngắm hoa anh đào. Y lời, đúng ngày mở đầu tháng Tư năm nay, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, Viện trưởng Viện Văn học và tôi lên đường công du sang Nhật khi biết chắc hoa anh đào đã nở.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG                     Ghi chép Truyền thống trong hội nhập...Rời xe bus số 64 chúng tôi rảo bộ trên con đường lát đá tảng của phố Della Concilia Zionli giữa hai hàng cột đá trông như những ngọn nến khổng lồ để đến với nơi mà bất kỳ người dân công giáo nào cũng hằng mơ ước.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                                KýSau gần nửa tháng rong chơi suốt hai đầu thượng hạ Ai Cập, tôi trở lại Paris chuẩn bị chuyến du hành sang Hy Lạp. Bỗng được tin của Văn Cầm Hải từ quê nhà: “Thầy về gấp. Đi Tây Tạng ngày 15/9”. Tôi quyết định ngay. Lúc ấy tôi không hiểu vì sao. Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGTôi mới có ý định leo núi Phú Sĩ trên đường từ Tokyo về cố đô Kyoto. Chiếc tàu siêu tốc chạy ngang qua vùng núi Fuji. Bên ngoài, trông Fuji hùng vĩ và đẹp hơn trong ảnh nhiều. Trên nền xanh thẳm của Công viên Quốc gia Fuji-Hakone-Izu, hai cánh núi từ tít tắp hai đầu Bắc Nam như đôi tình nhân thiên thu gặp lại, tràn về phía nhau. Và khi gặp nhau, cả hai hoà thành một, rồi bay vút lên trời, xuyên qua mấy tầng mây, để lộ giữa thinh không cao ngút cái chỏm mĩ miều như đầu ngọn bút lông.

  • TRẦN LỘC HÙNG1. Bạn bè tôi thường nói: “Không hiểu nước Nga nuôi mày kiểu gì mà tới bây giờ mày vẫn yêu nước Nga”. Vợ con tôi cũng vậy. Nước Nga dưới con mắt của những người thân của tôi hoàn toàn khác tôi. Đơn giản vì tôi đã tới nước Nga từ những năm tôi mới 17 tuổi, hơn nữa tôi đã sống, học tập và làm việc ở nước NGA ngót nghét 10 năm.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                           Bút kýChuyện kể rằng, vào một ngày tuyết trắng Tây kinh, Võ Tắc Thiên bỗng cao hứng lệnh cho tất cả loài hoa, nội trong một đêm phải nở hết. Sáng hôm sau, tuy giữa mùa đông giá lạnh, các loài hoa đều ríu rít nở, trừ... mẫu đơn. Võ Tắc Thiên giận lắm, bèn phán đày mẫu đơn xuống Lạc Dương cho khuất mắt. Từ đó, Lạc Dương trở thành quê hương của hoa mẫu đơn.

  • LÊ BÁ THỰ           Bút kýNhận lời mời của Bộ Văn hoá và Viện sách Ba Lan, tôi đi dự Đại hội Dịch giả Văn học Ba Lan toàn thế giới lần thứ nhất. Sau khi đến Vacsava,  sáng 11 tháng 5 tôi đáp xe lửa xuống Krakow , thành phố cách thủ đô Vacsava trên 300 cây số. Ngồi bên cửa sổ con tàu, tôi ngắm cảnh mùa xuân hai bên đường: những rừng thông tươi tốt, những cánh đồng lúa mì xanh xanh trải dài tít tận chân trời.

  • VI THÙY LINH           Tuỳ bútNgười Trung Quốc (TQ) có câu: “Trên trời có thiên đàng, dưới có Tô Châu, Hàng Châu”. Chỉ thoạt nghe, đã thấy người ta thật tự hào, về cảnh đẹp thành phố (TP) này đến thế nào, trên đất Đại lục dày đặc thắng cảnh, di tích, kỳ quan của Trung Hoa cẩm tú.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNG              Tản mạn từ Bruxelles Dưới mái hiên trạm gác cũ Porte de Ninove gần chỗ tôi ở có sống một cư dân đơn độc và lưu niên. Gã bù xù, tôi chỉ biết gọi gã như thế, nom chỉ trạc ngoài ba mươi nhưng có vẻ như đã cũ nát lắm rồi. Không ai biết gã từ đâu dạt vào, ở đó từ bao giờ.