Sóng Mỹ Hòa đủ để bạc đầu

09:03 23/05/2022

TRẦN BĂNG KHUÊ

            Bút ký dự thi

Biển Mỹ Hòa - Điền Lộc, Phong Điền - Ảnh: internet

Trong số báo 397 tháng 3/2022, Tạp chí Sông Hương đã đăng Thể lệ Cuộc thi bút ký về chủ đề “Di sản, văn hóa và con người Thừa Thiên Huế” do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế tổ chức, diễn ra trong thời gian từ ngày 15/3/2022 đến ngày 15/10/2022. Tạp chí Sông Hương là nơi nhận và đăng bài dự thi. Đây là cuộc thi mang ý nghĩa với đời sống văn hóa và văn học nghệ thuật vùng đất Cố đô, góp phần xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.

Từ số báo tháng 4/2022 này Tạp chí Sông Hương sẽ đăng tải bút ký dự thi. Ban Tổ chức mong nhận được sự hưởng ứng tham gia nhiệt tình của các tác giả trong tỉnh và trên cả nước.

Sóng Mỹ Hòa đủ để bạc đầu

 

1.

Những con sóng bạc tranh thủ chạm vào chân rồi tan ra. Cậu trai trẻ mái tóc xoăn, đôi mắt sâu thẳm nhìn xoáy vào đường chân trời. Dưới ánh sáng bình minh le lói tôi thấy cậu so đôi vai trần. Mùa hè bỏng lửa.

Phía sau lưng cậu là rặng phi lao chắn cát. Tiếng rì rào của biển, của lao xao khua gió. Cậu lặng im, ngắm nghía từng khoảnh khắc mặt trời mọc lên tròn to đỏ, cháy khát vọng trong đôi mắt anh bạn trẻ. Cậu là một vị khách nhỏ khá đặc biệt. Lần đầu tiên ghé thăm quê tôi, ngạc nhiên về sức sống của những cư dân miền biển khi bước chân vào nhà chào hỏi người nhiều tuổi nhất nhì trong làng.

Sáng sớm hôm nay, cậu đứng trước biển của tôi, biển của những con người da nâu rám nắng, chất phác gắn bó đời đời với nghề chài lưới, với con cá con tôm nhiều thế. Một vị khách như cậu, hẳn là, đang có sự đồng cảm nào đó. Tôi nhìn cậu. Tôi và cậu cùng nhìn về phía mặt biển đang được dát vàng bởi thứ ánh sáng thuần khiết ấm áp của mẹ thiên nhiên. Mặt trời bắt đầu không còn giữ nguyên hình dạng mà tan thành sắc nắng, quét đều lên cả bãi cát dài lấp lánh. Cậu mê mải ngắm nghía thưởng thức chân trời riêng nào đó trong mộng tưởng tuổi trẻ.

Con đường bê tông dài nằm chính giữa làng, xuyên suốt từ biển về tới căn nhà ba gian truyền thống quen thuộc dễ bắt gặp ở bất kỳ thôn xóm làng xã nào của xứ Huế. Ánh sáng trong đôi mắt mờ đục nhưng vô cùng sắc sảo tinh anh đang ngồi móm mém nhai trầu ở hành lang cất tiếng hỏi cậu, “về với biển có vui không con?” Cậu mỉm cười bẽn lẽn. Tôi chợt nghĩ, có lẽ dăm năm sau, ngày cậu ghé thăm biển của tôi lần nữa, thì người đàn bà hơn trăm tuổi kia cũng đã từ biệt biển để về với đất cát tổ tiên xa xôi rồi.

2.

Biển xưa - nay vẫn vậy, chẳng hề biến động đổi thay, nhưng sự sống và cái chết lại là một minh chứng hiện tồn rõ rệt nhất của thời gian, của đời người ngay tại vùng quê này. Từ biển, tôi lội ngược trở lại theo những nhánh sông, để được miên man kể lể câu chuyện của sóng, của nước, của những mái đầu bạc trắng theo chiếc thuyền ra khơi trong tâm trí ít ỏi của tôi. Từ biển, tôi cho phép dòng ký ức, thu vén mọi góc khuất của thời gian được giấu kín qua những cuộc đời, những sự tồn tại đã từng hiển thị từ ánh mắt, nụ cười đến khi chỉ còn là cát bụi hư vô như người đàn bà ấy.

Một ngày mưa xám lạnh tháng mười năm ngoái, tôi lại chạy về làng biển Mỹ Hòa trong tâm thế khác, không như những lần trước, những mùa hè nắng trở đều trên ngọn cây. Tôi đi qua những cánh đồng mênh mông mùa màng vàng bông lúa, hay đỏ chót những hàng ngang lối dọc của mùa ớt chín. Thời tuổi trẻ, tôi theo những chuyến xe thẳng quốc lộ 1A ra Mỹ Chánh, để trở về làng biển. Nhưng bây giờ tôi có thể chọn lối đi khác, chẳng hạn bon bon xe máy ngang Sịa thuộc huyện Quảng Điền, hoặc theo Quốc lộ 49B hướng cửa biển Thuận An, qua cầu Ca Cút. Tôi nhớ người đầu tiên đưa tôi về làng biển nghèo heo hút gió những tháng năm bé nhỏ ấy là người đàn bà góa, môi đỏ răng đen vừa mới rời bỏ cõi bụi trần, rời bỏ làng biển đã tồn tại cùng những thăng trầm chiến chinh, hòa bình.

Trong ký ức trẻ con, dù chỉ chút ít thôi hình ảnh lênh đênh trên chuyến đò mà tôi không biết phải mất bao nhiêu thời gian, nhưng tôi cảm giác dường như lâu lắm mới về tới làng biển thì phải. Trẻ con thì chỉ biết ăn biết ngủ, nhưng đứa trẻ như tôi đã từng thắc mắc, “sao đò chạy mãi chưa tới?” Đứa trẻ như tôi đâu biết, đò ngang - đò dọc là gì? Tôi còn nhớ phải ngủ mấy giấc, ăn hai ba lượt cơm trong chiếc lon gô bằng thiếc kỷ vật thời còn ly loạn mà người ấy bới theo suốt chuyến đò dọc mới chạm được chân không trên cát, mới nhìn thấy sóng bạc đầu dồn dập xô vào bờ cả đêm lẫn ngày ở làng biển nghèo những tháng năm xưa.

Dù rằng tôi không hình dung được nhiều cái cảm giác ngủ trên đò trong ký ức tuổi thơ, nhưng khi trưởng thành mỗi lần trở về với làng biển, thi thoảng lại được nghe người ấy hò đi hò lại mấy câu ca đầy trăn trở cuộc đời của kẻ đứt gánh giữa đường:

“Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp,
Em qua không kịp tội lắm anh ơi.
Ngờ đâu mà duyên trời sớm dứt,
đêm em nằm tấm tức lụy nhỏ tuôn rơi.
Vì ai mà mang tiếng chịu lời.
Đôi đứa mình xa cách, bởi ông trời mà xa”.

Tôi không để ý lắm đến những tâm tư trĩu nặng trong mấy câu hò ấy mỗi lần vui chuyện với con cháu, hoài nhớ một thời đoạn vất vả được cất lên từ người đàn bà miền biển. Hoặc sau này, nếu thắc mắc tôi cũng chỉ tự hỏi liệu có phải, người đàn bà góa ấy là người con của xứ Huế, mà đến cả lời ca tiếng hò cũng trở thành một phần máu thịt vô hình, dù rằng tôi biết bà chỉ võ vẽ đọc được dăm ba chữ.

Câu chuyện mà tôi luôn được nghe kể đi kể lại như một niềm tự hào, một động lực giúp bà gánh vác trên đôi vai gầy guộc cả đàn con cháu, sống vừa đủ hai thế kỷ đó là hình tượng một người đàn ông làm nghề chài lưới, tự học chữ, tự rèn chữ từ thế kỷ trước. Một hình tượng trong lòng người đàn bà góa ấy cho đến tận phút cuối lìa khỏi thế gian trở về với cát bụi vô thường. Dõ, tên người đàn ông họ Trần, đã nằm lại trên cánh đồng khoai dưới làn bom đạn những năm chiến tranh.

3.

Điền Lộc thuộc vùng Ngũ Điền, huyện Phong Điền, cách thành phố Huế khoảng 50km về hướng tây nam. Phía đông giáp Biển Đông, phía tây giáp xã Phong Chương; phía nam giáp xã Điền Hòa; phía bắc giáp xã Điền Môn. Gồm có bảy thôn: Nhất Tây, Nhì Tây, Nhất Đông, Nhì Đông, Giáp Nam, Tân Hội, Mỹ Hòa.

Những năm mười lăm tuổi, mười tám tuổi, mọi không gian tạo nên ký ức đối với tôi hệt như một khung trời đầy mộng tưởng, nhiều suy tư nhiều lưu luyến khi mắt được thấy tai được nghe những âm vị mới mẻ về một nơi đầy huyễn hoặc và chất thơ như sông Hương núi Ngự này.

Tôi không định mô tả lại những chuyến đi, nhưng chắc chắn hình ảnh ngày xưa mỗi lần cả người lẫn xe máy lên đò trung chuyển một đoạn trên phá Tam Giang ở bến Cồn Tộc rồi qua bến Vĩnh Tu (Quảng Ngạn) mới về được làng biển Mỹ Hòa đã ít nhiều cho phép tôi được phiêu lưu thứ xúc cảm tuổi trẻ giữa mênh mông sóng nước Tam Giang, hoặc trước biển trời xanh ngắt của làng Mỹ Hòa, thuộc xã Điền Lộc. Những năm tháng đó vì thế cũng vô tình hay hữu ý mà gắn kết thành một câu chuyện nối dài ký ức đời người của bất kỳ ai đã từng sinh ra lớn lên ở nơi này hoặc có khi chỉ của riêng tôi.

Bến đò Ca Cút nằm trên đoạn hẹp nhất của phá Tam Giang là nơi luân chuyển những người phương xa trở về với làng biển, bỗng nhớ một đoạn ca dao, kể lể câu chuyện tình trắc trở của người xưa:

“Đường vô xứ Huế quanh quanh.
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang”.

Thời đoạn ấy chưa có chiếc cầu bắc ngang phá Tam Giang như bây giờ.

Lẽ dĩ nhiên, thứ mà tôi tưởng nhớ về một nơi chốn tôi không sinh ra, nhưng cũng đủ dưỡng nuôi tôi hết một phần linh hồn tuổi thơ cho đến tận bây giờ. Và tôi, trở về trong thời điểm này, chỉ để cố gắng đối mặt với chính bản thân trước biển để hòng chấp nhận một sự rời bỏ của ai đó, của một con người đã sống qua hai thế kỷ gắn bó với miền thùy dương cát trắng thân thương bao nhiêu thế hệ ấy. Có thể, tôi nghĩ, việc trở về làng biển, chỉ để được nhìn thấy không khí biển mùa đông xám lạnh, khi những con thuyền nằm im úp ngược dưới chân sóng.

Những ngày mưa gió, tôi thường ngại bước chân ra biển, dù biển đã nằm ngay sau lưng nhà. Mỗi lần đứng trước biển, hẳn ai cũng sẽ có chung một cảm thức suy tư miên man dưới chân sóng, cùng với những chiều không gian sâu và rộng kia để trôi xa thật xa khỏi thực tại. Tôi nghĩ đến những mùa bão. Vừa xa vừa gần, như mới hôm qua, ở đâu đó nơi xứ Huế này còn khóc thương mất mát, còn thấy một người đàn ông quỳ lạy bốn phương đất trời giữa thăm thẳm mênh mông nước chỉ để cầu xin tìm được xác vợ con bị mùa lũ cuốn trôi đi mất.

4.

Ngược dòng thời gian cách đây dăm năm, tôi biết mùa bão luôn ám ảnh trong ký ức tôi và những người con xứ Huế. Hết bão, Huế cũng hửng nắng dần, trời xanh và trong, cây dẫu thưa cành ít lá, vẫn vươn mầm non không có tuổi lặng im bên cuộc đời tấp nập. Tôi nghĩ mùa này hẳn là chưa qua hết dư âm của những ngày mưa bão, biển vẫn còn động. Làng quê chài lưới của tôi chắc cũng chẳng náo nhiệt gánh cá từ dưới biển lên mỗi sớm hoặc giành nhau từng mớ rau từ trong chợ đưa ra. Ấy thế mà, trưa vừa về tới ngõ, đã nghe tiếng lao xao của các chị, các o, “cá lên, cá lên rồi”. Rứa là tiếng chân bước rộn rạo, tiếng dép nhựa lẹt xẹt từ nhà trước, nhà sau, tiếng các o trọ trẹ hỏi giá, hỏi “mớ cá này bao nhiêu một ký?”.

Vừa từ phố thành trở về làng biển, mới chào hỏi người đàn bà sống hai thế kỷ dăm ba câu, nhìn ra cổng đã thấy một chị bưng rổ cá nhỏ bên hông, thấy người đàn ông tuổi sáu mươi chạy ra nhìn ngó rồi quay vào hỏi, “có cá thởn, cá hố, ăn không cô gái nhỏ?” Dĩ nhiên. Làng biển mà, đất cát sạch bong, thả dép đi chân không mới sướng, nhìn rổ cá tươi lấp lánh mắt nắng, còn vương mùi muối và hơi biển phả ra đã cười tít gật đầu cái rụp rồi. “O hốt hết cho tui hai mớ đó luôn, bốn con cá thởn, bốn con cá hố, ri là mấy?”, người đàn ông nói. Chị bán cá vừa đưa tay bốc cá cho vào túi ni lông vừa thủng thẳng, “cả mớ ni sáu chục chẵn chú nờ”. Tôi nghĩ bụng, thành phố chừng ni cá, e là phải cả trăm ngàn chớ giỡn. Nhưng, kiểu gì thì kiểu, các o các mệ kho cá kiểu Huế ngon lắm. Tôi ưng kiểu cá kho quẹt, khô. Bởi vậy lần nào về với làng biển cũng được mang lên thành phố món cá nhờ tay o, người đàn bà góa thứ hai trong nhà, tuổi cũng đã hơn bảy mươi mùa xuân có lẻ, nhưng vẫn nhanh nhẹn, tháo vát chuyện bếp núc kho nấu lắm. Với lại o mà kho cá thì mấy đứa cháu háu ăn cũng phải ngồi vét sạch nồi trộn cơm cho đã thèm. Mẹ của o, hơn trăm tuổi vẫn minh mẫn cũng khen o nấu kho quẹt rất ngon, dù thi thoảng hay ràm o về việc đãng trí, làm đâu quên đó, cho đi không tiếc thứ gì. Mà đời cũng phù phiếm lắm, người biết cho không nghĩ ngợi, đâu phải nhiều.

O ra biển về, nhìn thấy mớ cá tươi treo móc trên gánh, tự động lấy xuống, vừa làm vừa hỏi vọng, “cá ba mi mua hả con?” Tôi chạy ra bếp, giọng thủng thẳng nịnh o, “Dạ, ba nói o kho quẹt ngon lắm, o làm cho con, lâu rồi con không được ăn cá kho quẹt của o”. Dăm ba phút loay hoay, từ trong nhà trên tôi đã nghe mùi cá thơm phức nghẹn mũi, mùi của biển mùa hanh hao cơn gió mằn mặn sau bão.

Nắng lên, mọi thứ cũng bớt đi mùi ẩm mốc xám xịt, nụ cười cũng nở nhiều trên môi mọi người hơn thì phải? Tối lại, o dọn cơm sớm. Nhìn mâm cơm có đĩa cá thởn, dăm lát cá hố tươi kho quẹt đậm màu ớt bột, hương vị quen thuộc của Huế vừa cay nồng vừa thơm mùi củ nén xanh màu lá hẹ. Cha con tôi chỉ đợi vét nồi khi cá đã hết. O thì nói, “o cất một ít mai bới vào chiếc hộp cho con mang lên phố”.

Tôi nhớ lúc ra biển, có mấy chiếc ghe về khi xế trưa, ghe nào cũng thấy những khuôn mặt rạng ngời nụ cười khi đang gỡ lưới. Cá mắc vào lưới, chỉ là số cá nhỏ như cá khoai, cá thởn, cá trích, cá bạc má, ít con cá on bé tí, vậy mà cũng đủ để người ở làng chài lưới xa thành phố này sung sướng đến vỡ oà trên ánh mắt hiền hòa tình thương mến thương chân chất. Có lão già bạc tóc, ngồi gỡ lưới một mình trên thuyền, miệng cười mỉm, tay gỡ lưới, tay đưa lên vẫy vẫy chào mấy kẻ lạc bước giữa sóng trắng quê nhà. Rồi cũng có lần trở về lang thang ra biển, lại thấy một lão râu bạc tóc cũng bạc khác, đôi mắt sáng lấp lánh ngồi thẫn thờ trên bãi cát nhìn ra phía chân trời. Mà phải đâu ai xa lạ, ông bác họ, trưởng tộc Trần nhà tôi. Nghiêm cẩn ít nói. Nhưng cũng thăng trầm gần một đời phiêu bạt núi rừng xa xôi, mới trở về quê thờ tự giữ hương khói. Hẳn là ông nhớ những cánh buồm.

Có lần, tôi nhìn thấy ông đang ngồi lặng im trước biển, tôi không định làm phiền khoảnh khắc tư lự ấy của ông. Nhưng ông biết tôi đến gần, ông buột miệng chỉ về phía chân trời xa, về phía những cánh buồm no gió và nói, “trái tim của làng mình là ở đó”. Thế mà tôi chỉ nghĩ đơn giản về việc những người già như ông đang hoài niệm về tuổi trẻ, hoặc cũng có thể là những người đàn ông quen thuộc cùng thế hệ đã rời bỏ cuộc chơi, rời bỏ đầu sóng ngọn gió mà nằm im lặng dưới mấy tấc đất cát sau rặng phi lao xào xạc.

Có hôm, buồn tình chạy về với làng biển mấy ngày mưa đầu tháng mười hai, thấy nước lên tràn bờ, thấy người ta buông vó bên đường lạnh cóng mù sương xám lại chạnh lòng. Chắc hẳn ngoài quê chẳng có con thuyền nào ra khơi, chúng sẽ nằm gối bãi mà nghe tiếng sóng dập vùi; hẳn là không có ai ngồi gỡ lưới như ông cụ tóc bạc mùa hè năm ngoái, năm kia mỉm cười sung sướng những ngày trời nắng ráo. Thế mà về đến nhà cũng mong ngóng chị bán cá bê rổ đi ngang, dừng lại trước cửa cất tiếng rao chân chất của người xứ Huế ở quê: “Ai cá thởn, cá on khôn?”.

Hình như tiếng Huế giọng Huế tự ăn sâu vào máu, bình thường tôi vẫn dùng giọng Nam lai miền núi, chứ khi đã ra đến chợ, về tới làng, tự giác cất tiếng rặc ri như ngày xưa vẫn hay hát đùa, “ơi Huế của ta ăn mắm ruốc sặc sừ”. Vậy chớ kẻ ở gần người ở xa lòng chắc chắn nặng trình trịch nỗi nhớ quê nhà.

5.

Đêm tháng mười, năm hai không hai mươi mốt, người đàn bà của biển rời bỏ cuộc chơi. Tôi ngơ ngác trở về căn nhà ba gian quen thuộc, ngơ ngác nhìn về phía góc giường một lạnh lẽo và tôi ngơ ngác trong dòng hồi ức của riêng mình. Huế vẫn còn đang mùa bão, chỉ khác, mùa bão năm nay là mùa bão cuối cùng của con người thiết tha yêu đời sống này. Người đàn bà của làng biển Mỹ Hòa gồng gánh trên đôi vai gầy gần hai thế kỷ thăng trầm.

Tôi vốn lơ ngơ về lệ làng, về phong tục tang ma, hiếu hỷ. Thời điểm này tôi lại càng không có tâm trạng để tìm biết như những ngày tháng tuổi trẻ mỗi lần trở về làng, hào hứng hỏi han mệ với cha những hoạt động văn hóa làng xã, những câu chuyện xưa mà người già kể lại. Đơn cử như việc người Huế rất coi trọng lễ tiết gia phong, thờ cúng, ma chay. Rồi đến cả việc xây dựng đền thờ họ tộc. Trước đó, tôi cũng đã từng tò mò thắc mắc với ông bác tộc trưởng họ Trần có chòm râu bạc trắng, thời trẻ từng là y tá, mấy mươi năm cuộc đời trở về làng làm một ông già của biển cả, coi sóc việc thờ tự, giữ gìn chữ nhân - hiếu - nghĩa, khuyến khích con cháu học hành, tu dưỡng, như ông Dõ, như mệ, như cha tôi vậy.

Ngay chính giữa căn nhà ba gian truyền thống, người đàn bà hơn trăm tuổi, người yêu thương tôi hết mực đang nằm yên lặng không cười không nói, không hò vè câu lục câu bát giọng Huế thăng trầm nữa. Nhưng cha tôi thì vẫn theo quy định lệ làng mà cau trầu trà rượu mời làng khăn đóng áo dài xuống dự lễ tang của mệ. Cha tôi có giải thích khi tôi hỏi đến phong tục lệ làng về chuyện tang ma rằng, nếu nhà có điều kiện thường mời thầy chùa, thầy pháp, có ban nhạc lễ, nhà khó khăn, thì nhờ hội đồng của làng lo giúp, khuôn hội Phật giáo ở làng đến cúng tụng kinh chăm lo chu toàn. Chính nhờ những tục lệ quý hóa này của làng quê mà các tang lễ tổ chức ở làng tại xứ Huế, luôn ấm cúng và đầy tính nhân văn. Chương trình tang lễ được đặt ra tùy theo việc xem được ngày giờ chôn cất. Nếu không coi ngày giờ, nội trong ba ngày là phải chôn cất. Người chết gặp lúc cận tết phải chôn cất vào ngày ba mươi tháng Chạp, không được để sang năm mới.

Hoạt cảnh khiến tôi bất ngờ và giật mình là sáng ngày đưa tiễn mệ ra đồng, có một đội âm công với trang phục sặc sỡ màu sắc xanh đỏ, tiếng gõ trống, khua chiêng như một thứ âm thanh rộn ràng của mùa hội lễ chứ không phải tang ma buồn bã, u sầu. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh này, nên lại muốn thắc mắc với cha, nhưng chỉ sau khi chứng kiến đội âm công lạy mệ, xin phép đưa mệ ra khỏi cửa, rồi sau đó nhảy vòng quanh quan tài của mệ, tâm trạng tôi vừa phấn khích vừa nặng trĩu khi biết đây là khoảnh khắc cuối cùng mệ còn được ở trong căn nhà ba gian quen thuộc gắn bó trọn tình trọn nghĩa với lời thề thủy chung son sắt của một đời người đàn bà chuẩn mực xứ Huế.

Mới đó mà hết một mùa đông, hết một mùa xuân lặng lẽ của thời đoạn dịch bệnh, tang thương. Tháng ba cũng sắp qua. Tháng tư, tháng năm đã bắt đầu đợi để chạm tay đến từng khuôn mặt người xứ sở miền Trung mưa dầm nắng gắt. Huế của tôi, làng biển của tôi, người đàn bà tảo tần một đời chắt chiu cho con cháu của tôi cũng đã sống trọn vẹn, viên mãn, vừa lòng đẹp dạ đất trời.

Tôi trở về với biển. Mùa hè. Căn nhà ba gian lặng lẽ. Nơi cánh cửa vắng một bóng người vẫn thường ngồi trên chiếc ghế nhỏ, nhìn ngắm xa xôi tận chân trời. Tôi rời gót, men theo con đường bê tông của làng cùng với o, với cha và những người bạn, đi về phía những rặng phi lao. Nhà của mệ bây giờ ở đó.

Đứng trước mộ phần chỉ mới đắp gạch đúc xi măng của mệ, cậu trai trẻ tóc xoăn, vị khách nhỏ tuổi năm xưa, giờ cũng theo chân tôi về thắp nén hương cho mệ. Cậu bảo, cậu muốn ra biển. Biển của tôi liệu rằng có khác biển của cậu? Một người ở đầu, một người ở cuối phá Tam Giang. Cậu trầm ngâm: “Mệ từ khi chân yếu mắt mờ, chắc chưa bao giờ ra biển trở lại phải không chị?” Tôi nghĩ, nhưng không nói ra thành lời với cậu, bởi vì tôi hiểu, biển đã tiễn đưa mệ bằng tiếng sóng bạc đầu trăm năm từ lâu lắm rồi.

Bên cạnh phần mộ của mệ là bức hình họa được khắc trên bia đá do cha tôi vẽ bằng một cây chì kẻ mắt người đàn ông làm nghề chài lưới làng Mỹ Hòa, thuộc tộc họ Trần Công, tạ thế năm 19...

T.B.K
(TCSH398/04-2022)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.