Sông Hương - tặng phẩm của thiên nhiên xứ Huế

09:32 10/02/2009
TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

Nhánh Hữu Trạch dài chừng 56 km, xuất phát từ độ cao tuyệt đối khoảng 700 mét ở vùng núi trung bình phía đông A Lưới - Nam Đông, chảy cuồn cuộn về hướng Tà Lương, Bình Điền, băng qua 14 ghềnh thác đầu nguồn về hội nhập với Tả Trạch ở ngã ba Bằng Lãng.
Nhánh Tả Trạch cũng khởi nguồn từ vùng núi trung bình phía đông A Lưới - Nam Đông, với độ cao tuyệt đối ở đầu nguồn ước chừng 1.100 mét, va đập dữ dội vào 55 thác ghềnh, băng qua khoảng 61 km từ điểm khởi đầu đến ngã ba Bằng Lãng, hợp lưu với Hữu Trạch tạo thành sông Hương, uốn lượn quanh co qua kinh thành Huế, chia nước vào các nhánh sông nhỏ, sông đào, xuôi về Bao Vinh, nhập với sông Bồ ở ngã ba Sình, lững lờ đổ ra phá Tam Giang.
Nhánh sông Bồ bắt nguồn từ phía đông nam A Lưới, ở độ cao tuyệt đối khoảng 650 mét, băng qua 31 thác ghềnh, chảy về hướng Hương Trà, Phong Điền, xuôi về hợp lưu với sông Hương ở ngã ba Sình với chiều dài khoảng 90 km.
Lưu vực mỗi nhánh sông trải ra khá rộng, tạo thành một dạng lưu vực hình nan quạt có diện tích đến 2.713 km2, chiếm hơn 54% diện tích tự nhiên của tỉnh Thừa Thiên Huế.

• Bao quanh sông Hương là một hệ thống thực vật đa dạng, mang sắc thái của một vùng địa lý thổ nhưỡng nhiệt đới đặc thù miền Trung Việt . Từ xưa, rừng rậm mênh mông đã trải dài từ đầu nguồn đến gần vùng kinh thành Huế. Địa bạ thời Tây Sơn vào thế kỷ XVIII của làng Xuân Hoà có ghi sự kiện vua Quang Trung bàn với các bô lão làng Hà Khê về việc đốn những cây gỗ lớn ở khu rừng quanh núi Thiên Mụ để đóng thuyền chuyển quân ra Bắc. Ngày nay dù đất rừng đã bị thu hẹp, thành phần cây rừng bị biến động nhiều, nhưng rừng ở Thừa Thiên Huế vẫn còn rất đa dạng.
Che phủ vùng đồi núi đầu nguồn sông Hương vẫn còn những loại cây gỗ rừng có giá trị cao như kim giao, trầm, gõ, kiền kiền, lim xanh, giổi, huệnh, sến, chua, thông hai lá... sống chen với vô vàn cây thuốc, cây đặc sản rừng như địa y, dương xỉ, lá nón, cây móng trâu, sim, mua, mai vàng, mai núi, trang rừng, ngũ sắc, phong lan, nấm mối, nấm tràm, nấm mộc nhĩ, nấm dại v.v... và bạt ngàn lau lách, lồ ô, bạt ngàn hoa cỏ dại. Tài liệu thống kê của các nhà nghiên cứu đã tẩn mẩn ghi chép dọc sông Hương và vùng đầm phá Thừa Thiên Huế đã xuất hiện 224 loài tảo, 272 loài nấm, 5 chi địa y, 10 loài rêu, 16 loài hạt trần và 1.500 loài hạt kín, kể cả thực vật hiển hoa trên mặt đất và thực vật hiển hoa dưới nước.

Ở đồng bằng duyên hải dọc sông Hương, kéo dài từ vùng giáp ranh gò đồi đến vùng đất nội đồng, cồn cát ven biển và đầm phá phía đông, thảm thực vật ít đa dạng và phong phú so với vùng núi rừng, nhưng sông Hương vẫn là bà mẹ nuôi dưỡng những loài cây lương thực thực phẩm, nuôi những cánh đồng lúa nước, sắn, khoai, bắp, đậu, môn, nưa..., những nương vườn mít, chuối, nhãn, dâu, đào, chanh, bưởi, thanh trà, giáng châu, thơm, chè... Từ lâu đời con người xứ Huế đã chắt chiu những đọt rau khoai, rau dền, rau muống, rau tập tàng, những dưa hường, dưa gang, cà tím, cà pháo, bí đỏ, bí xanh, mướp ngọt, mướp đắng, bầu dài, bầu tròn, hẹ, hành, ném, tỏi, ớt, tiêu, gừng, riềng... để tặng cho đời những món ăn cay nồng, thấm tháp hương vị mà những món chay, món mặn, những món chè, món cháo, món bánh xứ Huế luôn tạo được phong vị độc đáo. Chỉ riêng loại cây gia vị như ớt, Thừa Thiên Huế đã cung cấp một tập đoàn giống phong phú như ớt chỉ thiên, ớt tím, ớt trắng, ớt xanh, ớt vàng, ớt hiểm, ớt cao sản... đến nỗi chỉ nhìn vào "cái nết ăn ớt" đã biết người từ xứ Huế mà ra.

Ở tiểu vùng gò đụn cát, hệ thực vật rất nghèo nàn. Loài thực vật thân gỗ nguyên sinh còn rất ít, thỉnh thoảng mới bắt gặp những cây mù u chắn cát ngày xưa, còn lại hiện nay là những thân cây bụi mọc thành truông với các loài ô rô, găng, cát đằng..., với những rặng dương liễu, phi lao, keo lá tràm... nhưng có điều lạ là hệ thực vật tiểu vùng đầm phá và biển ven bờ lại rất đa dạng, bao gồm cả thực vật phù du, cỏ thuỷ sinh, thực vật rừng ngập mặn. Các nhà khoa học đã thống kê được ở vùng đầm phá có 229 loài thực vật phù du thuộc 4 ngành chủ yếu là tảo silic, tảo giáp, tảo lục, tảo lam mà rau câu xứ Huế là một loài tảo rất có giá trị về nguồn lợi thuỷ sản. Ở vùng biển ven bờ còn có 324 loài thực vật phù du thuộc các ngành tảo nâu, tảo đỏ ở vùng cửa sông, những loài thực vật ngập mặn như cỏ gà nước, lác, sú, vẹt, đước, mắm... đã một thời sinh sôi, tạo thành rừng ngập mặn xứ Huế. Bám vào đáy đầm phá còn có 16 loài cỏ thuỷ sinh lớp hành, 7 loài rong mái chèo, rong đuôi chó, rong khía, cỏ lá hẹ... là nơi cư trú cho động vật đầm phá và bao đời nay còn là nguồn thức ăn cho gia súc, là phân bón hữu cơ cho cây khoai lang, ớt, thuốc lá của người dân quê ven đầm phá.

• Đầu nguồn sông Hương, đặc biệt là những vùng có độ cao tuyệt đối trên 700 mét, từ xưa đến nay vẫn là vùng đệm, vùng giao lưu của nhiều phức hệ động vật nhiệt đới phương bắc, phương nam, là khu vực địa hình rất lý tưởng cho nhiều động vật lớn, nhất là các lớp thú rừng như voi, cọp, báo, gấu, bò rừng, vượn, khỉ, vóc vá, đười ươi, tê tê... Vùng núi thấp là nơi cư trú của những loài thú nhỏ như hươu, nai, hoẵng, cầy, mang, lợn rừng, cú mèo, thỏ, nhím, chồn...

Dọc vùng gò đồi và đồng bằng duyên hải, những cư dân bản địa sống cách ngày nay chừng ba, bốn ngàn năm đã từng thuần dưỡng nhiều loài động vật như trâu, bò, lợn, chó, mèo, gà, vịt, ngỗng, bồ câu...; biết đánh bắt những loài chim thú, ếch nhái, bò sát, cá tôm... Đặc biệt, từ đầm phá ven biển, cư dân sống ven sông Hương đã khai thác từ lòng sông, từ vùng phá Tam Giang màu mỡ, từ những giải biển ven bờ nhiều sản phẩm cá nước ngọt, cá nước lợ, thuỷ hải sản phong phú và đa dạng, từ tôm tép đến cá tràu, cá thệ, cá bống, cá dìa, cá hanh, cá gáy, cá liệt, cá nâu, cá hồng, cá mú, cá ác mó, cá chim, cá vượt, cá đối, cá đuối, cá trích, cá chuồn, cá cơm ... đến mực, tôm, cua, vọ vọ, rạm, ốc, hến, trai, trìa... thơm ngon của xứ Huế, chế biến thành những đặc sản lừng danh như tôm chua, cơm hến, mắm ruốc... , góp phần hình thành một dòng nghệ thuật độc đáo: nghệ thuật ẩm thực Huế.

Nằm giữa tiểu vùng khí hậu đặc biệt, nhiệt độ trung bình quanh sông Hương giao động từ khoảng 18 đến 24 độ C, nhưng vào những đợt gió mùa đông bắc tràn về, nhiệt độ không khí lại hạ thấp đến khoảng từ 5 đến 8 độ C, vào những đợt gió nóng tây nam thổi đến, hơi nước của sông Hương cũng không đủ để điều hoà khí hậu, có khi nhiệt độ nóng tới 38, 40 độ C. Với số ngày mưa trong năm rất cao, lượng mưa lớn, độ ẩm trung bình của tháng giao động từ 79% đến 92%, những ngày nắng nóng cũng chỉ giảm đến mức 40% đến 60%, từ vùng núi đầu nguồn đến cửa sông Hương là chiếc nôi chờ đón những loài động vật từ phương xa thiên di đến xứ Huế hằng năm, kể cả những đợt di cư từ mùa mưa lạnh rồi mùa nắng nóng, quanh sông Hương lại là nơi hội tụ của nhiều loài động vật xứ lạ, tạo thành một vùng sinh thái động vật rất đa dạng.

Các nhà khoa học đã từng phát hiện quanh sông Hương có nhiều loài động vật di nhập từ phía bắc, phía nam Việt Nam, từ Lào, từ vùng Hoa Nam của Trung Quốc, thậm chí từ cả vùng Đông Nam Á và xứ Ấn Độ ở rất xa về cộng cư. Đến từ hai mùa mưa nắng để tìm vùng khí hậu thích hợp, để kiếm ăn và sinh sản rồi định cư ở xứ Huế có cả những loài chim nước, chim ăn cá, chim ăn côn trùng như ó cá, gà nước vằn, cuốc ngọc nâu, sẻ mỏ rộng, quạ khoang, khứu xám, khứu bạc má, gà lôi lông tía, công, cu xanh...; có cả những loài thú khỉ mốc, khỉ đuôi dài, voọc bạc má, gấu chó, voi, bò tót, sóc bụng xám, báo lửa, báo gấm, tê tê vàng...; có cả loài bò sát rùa háp, rắn lục rừng, rắn lục núi; cả loài ếch nhái như cóc chân dài; loài cá như cá chình gai, cá chình hoa, cá bám đá, cá trê đen, cá trê trắng, cá măng sữa...

Tất cả đã hợp lại rất đông vui. Kết quả điều tra cơ bản bước đầu về tài nguyên sinh vật ở Thừa Thiên Huế cho thấy ở đây đã có đến 108 loài thú với 28 họ 12 bộ, 333 loài chim với 53 họ 15 bộ, 74 loài bò sát với 17 họ 2 bộ, 296 loài cá với 70 họ 17 bộ, 33 loài lưỡng thê với 6 họ 1 bộ. Thừa Thiên Huế trở thành một trong số rất ít những trung tâm đa dạng động vật Việt và của cả khu vực; đồng thời cũng là một trong những địa phương còn bảo lưu được nhiều động vật quý hiếm đặc hữu của đất nước. Đặc biệt trong 814 loài động vật có xương sống đã được xác định và phân bố tại các hệ sinh thái nội địa ở Thừa Thiên Huế, các nhà khoa học đã thống kê được 74 loài động vật quý hiếm theo quy định của sách đỏ Việt Nam, trong đó có 16 loài chim, 8 loài cá, 4 loài ếch nhái, 16 loài bò sát, 30 loài có vú. Mức độ quý hiếm nầy rất cao so với nhiều vùng đa dạng sinh học trong khu vực và trên cả nước. Trong sự đa dạng đó, những loài động vật quần cư quanh sông Hương chiếm một tỷ lệ cực lớn.

• Tặng phẩm của thiên nhiên xứ Huế, sông Hương cũng như nhiều dòng sông trên trái đất nầy vẫn có những lúc chuyển mình giận dữ, tuôn nước lũ từ đầu nguồn về hạ lưu, nhận chìm biết bao sinh mạng của con người, tàn phá dữ dội môi trường sống; có lúc sông lại cạn kiệt để nhường cho nước mặn của biển tràn vào, giết chết những cánh đồng xanh tươi. Ở đầu nguồn đến tận cửa sông vẫn ẩn chứa mhững cây độc, nấm độc, những thú dữ, động vật gây bệnh và phá hại cuộc sống của con người, như mặt trái của bức tranh thiên nhiên, như yêu tinh vẫn quanh quẩn đâu đó trên chốn bồng lai tiên cảnh
Phải chăng sứ mệnh của con người là sống với thiên nhiên, sống cùng thiên nhiên. Bằng trái tim nhân hậu và trí tuệ sáng suốt của con người, loài người phải tiếp tục khám phá thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên để chủ động ngăn ngừa tai ương bằng một cuộc sống được tổ chức bền vững, giàu tính nhân văn. Phải chăng sống với sông Hương là phải sống với tấm lòng biết nâng niu, gìn giữ một tặng phẩm quý báu của trời đất, đừng ai nỡ dang tay dày vò sông Hương. Nếu không, e rằng  một ngày không xa lắm, tặng phẩm  thiên nhiên  xứ Huế cũng sẽ trở thành trái độc giữa lòng của Huế.
T.T.C

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Năm 1776, trong sáu tháng làm quan ở Huế, có điều kiện ghi chép những điều mắt thấy tai nghe, đọc kỹ văn thơ ở vùng đất Thuận Hóa để viết tập bút ký Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã đưa ra một nhận định mang tính tổng kết: Đây là vùng đất “văn mạch một phương, dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm!”.

  • Ở thời điểm năm 1987, GS Trần Quốc Vượng là người đầu tiên nêu quan điểm cần đổi mới tư duy lịch sử, nhận thức đúng sự thật lịch sử và thảo luận tự do, dân chủ, rộng rãi, trong đó có vấn đề xem xét lại nhà Nguyễn và thời Nguyễn.

  • ĐỖ XUÂN CẨM 

    Thành phố Huế khác hẳn một số thành phố trên dải đất miền Trung, không chỉ ở các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền, thành quách… mà còn khác biệt ở màu xanh thiên nhiên hòa quyện vào các công trình một cách tinh tế.

  • KỶ NIỆM 130 CHÍNH BIẾN THẤT THỦ KINH ĐÔ (23/5 ẤT DẬU 1885 - 23/5 ẤT MÙI 2015)

    LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Huế, trong lịch sử từng là vùng đất đóng vai trò một trung tâm chính trị - văn hóa, từng gánh chịu nhiều vết thương của nạn binh đao. Chính biến Thất thủ Kinh đô 23/5, vết thương lịch sử ấy ăn sâu vào tâm thức bao thế hệ người dân Cố đô.

  • KIMO 

    Café trên xứ Huế bây giờ không thua gì café quán cốc ở Pháp, những quán café mọc lên đầy hai bên lề đường và khi vươn vai thức dậy nhìn xuống đường là mùi thơm của café cũng đủ làm cho con người tỉnh táo.

  • LTS: Diễn ra từ 10/6 đến 22/6/2015, cuộc triển lãm “Thừa Thiên Huế: 90 năm báo chí yêu nước và cách mạng” do Hội Nhà báo tổ chức tại Huế, trưng bày các tư liệu báo chí hết sức quý giá do nhà báo, nhà nghiên cứu Dương Phước Thu sưu tập, đã thu hút đông đảo công chúng Huế. Nhiều tờ báo xuất bản cách đây hơn thế kỷ giờ đây công chúng được nhìn thấy để từ đó, hình dung về một thời kỳ Huế đã từng là trung tâm báo chí của cả nước. Nhân sự kiện hết sức đặc biệt này, Sông Hương đã có cuộc phỏng vấn ngắn với nhà nghiên cứu Dương Phước Thu.

  • MAI KHẮC ỨNG  

    Một lần lên chùa Thiên Mụ gặp đoàn khách có người dẫn, tôi nhập lại để nghe thuyết minh. Nền cũ đình Hương Nguyện trước tháp Phước Duyên được chọn làm diễn đài.

  • LÊ QUANG THÁI

    Việt Nam giữ một vị thế trọng yếu ở ngã tư giao lưu với các nước của bán đảo Ấn Hoa và miền Viễn Đông châu Á.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                            Tùy bút

    Mối cảm giao với Túy Vân khởi sự từ sự tạo sinh của đất trời trong lớp lớp mây trắng chảy tràn, tuyết tô cho ngọn núi mệnh danh thắng cảnh thiền kinh Cố đô.

  • PHẠM THÁI ANH THƯ

    Trong giai đoạn 2004 - 2013, nền kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế (TTH) đạt mức tăng trưởng khá cao so với mức bình quân của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch hợp lý theo hướng du lịch, dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đồng hành với mức tăng trưởng đó, nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước đã đến đầu tư tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Một số nhà nghiên cứu đã chú tâm tìm kiếm nơi an táng đại thi hào Nguyễn Du ở Huế, sau khi ông qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16/9/1820).

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN 

    Sông Hương vừa là cột mốc làm chứng vừa là biểu tượng cho dáng đẹp sương khói, “áo lụa thinh không” của lịch sử thăng trầm về hình bóng Huế.

  • ĐỖ XUÂN CẨM

    1. Đôi điều tản mạn về Liễu
    Người Á Đông thường coi trọng luật phong thủy, ngũ hành âm dương, họ luôn chú trọng đến thiên nhiên, cảnh vật và xem đó là một phần của cuộc sống tinh thần.

  • TRƯỜNG PHƯỚC  

    Đất nước hòa bình, thống nhất, thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đã 40 năm. Những thành tựu là có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, muốn phát triển, công cuộc đổi mới cần được thúc đẩy một cách mạnh mẽ có hiệu quả hơn nữa.

  • LƯU THỦY
     
    KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ (26/3/1975 - 2015)

  • LÊ VĂN LÂN

    Một mùa xuân mới lại về trên quê hương “Huế luôn luôn mới” để lại trong tâm hồn người dân Huế luôn trăn trở với bao khát vọng vươn lên, trả lời câu hỏi phải tiếp tục làm gì để Huế là một thành phố sáng tạo, một đô thị đáng sống. Gạt ra ngoài những danh hiệu, kể cả việc Huế chưa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, vấn đề đặt ra đâu là cái lõi cái bất biến của Huế và chúng ta phải làm gì để cái lõi đó tỏa sáng.

  • THANH TÙNG

    Ở Việt Nam, Huế là thành phố có tỉ lệ tượng lớn nhất trên diện tích tự nhiên và dân số. Không chỉ nhiều về số lượng mà còn đạt đỉnh cao về chất lượng nghệ thuật, phong phú về đề tài, loại hình, phong cách thể hiện.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Chùa Hoàng giác là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng nhất xứ Đàng Trong, được đích thân chúa Nguyễn Phúc Chu cho tái thiết, ban sắc tứ vào năm 1721. Tuy nhiên, vì trải qua binh lửa chiến tranh chùa đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Dựa trên nguồn sử liệu và kết quả điều tra thực tế, chúng tôi cố gắng để phác thảo phần nào nguồn gốc ra đời cũng như tầm quan trọng của ngôi chùa này trong đời sống văn hóa cư dân Huế xưa với một nếp sống mang đậm dấu ấn Phật giáo.

  • TRẦN VĂN DŨNG

    Cách đây đúng 500 năm (1514 - 2014), tại ngôi làng ven sông Kiến Giang “nơi cây vườn và dòng nước cùng với các thôn xóm xung quanh hợp thành một vùng biếc thẳm giữa màu xanh mênh mông của cánh đồng hai huyện”(1) thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cậu bé Dương Văn An, sau này đỗ Tiến sĩ và làm quan đến chức Thượng thư được sinh ra đời.