"Kính gửi đồng chí Mikhail Sergeyevich Gorbachov, Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô...
Nikolai Bukharin - Ảnh: wiki
Tôi xin đặt ra ở đây vấn đề phục hồi Đảng tịch cho người chồng quá cố của tôi, ông Nikôlai Ivanôvich. Tôi thỉnh cầu điều này không phải chỉ nhân danh riêng tôi, mà còn nhân danh Bukharin. Lúc chia tay lần cuối để đến dự hội nghị Trung ương tháng Hai và Ba năm 1937, Nikôlai Ivanovich đã linh cảm rằng ông sẽ không bao giờ trở về nữa. Cho rằng tôi còn rất trẻ, Nikôlai đã yêu cầu tôi hãy chiến đấu vì sự trong sạch của tên tuổi ông sau khi ông mất... "Hãy hứa với tôi là cô sẽ thực hiện việc ấy!" Và tôi đã hứa. "Phản bội lời thề này sẽ làm cho lương tâm tôi bứt rứt..." "
Trên đây là bức thư của bà Anna, Larina vợ của Bukharin.
Từ năm 1918 đến năm 1927, Bukharin sống ở khách sạn Metropol, bà Anna Larina, lúc ấy còn là một cô gái trẻ, cũng ở trong khách sạn ấy. Bukharin là một nhà sinh vật học, ông nghiên cứu về chim và có trình độ về hội họa. Bị cuốn hút bởi lòng yêu thiên nhiên và tính cách của con người ông, năm 1925, Anna Larina đã làm một bài thơ tỏ tình, gửi cho Bukharin.
Nikôlai Ivanovich là một nhà hoạt động cách mạng từ thời còn trai trẻ. Ông thường bận tâm về cuộc cách mạng và công cuộc cải tạo xã hội mang tính nhân đạo. Theo ông, hình như mục đích này không thể nào đạt tới được nếu như không có sự thay đổi trong bản chất con người. Không nâng cao trình độ văn hóa cho những thành phần dân chúng thấp hèn, công nhân và nông dân, những người được xem là cùng đinh trong thời kỳ trước cách mạng. Tư tưởng này ngày càng làm ông bận tâm. Thế giới mới, theo ông, phải được xây dựng, bất chấp cái giá mà nỗ lực của con người phải trả. Nhưng điều này không có nghĩa là "bằng mọi giá". Bukharin cũng thường bị dằn vặt trước những xung đột về đạo đức. Ông cũng nhìn thấy được những bề mặt bi kịch của những tư tưởng đầy quyến rũ. Ilya Ehrenburg đã viết về ông: "có những con người cực kỳ đau khổ với những tư tưởng lạc quan. Cũng có những kẻ bi quan vui vẻ. Bukharin đã chứng tỏ một sự thống nhất kỳ lạ về bản chất. Ông muốn tái tạo cuộc sống bởi vì ông yêu nó".
Giữ những chức vụ cao trong Đảng và Nhà nước (sau tháng hai năm 1917 ông là ủy viên Ban chấp hành Trung ương, Tổng biên tập báo "Sự thật", và rồi tờ Izvestia; trong nhiều thời kỳ ông là Ủy viên Bộ chính trị, và ở trong Đoàn Chủ tịch của Quốc tế Cộng sản) ông vẫn là một con người dễ gần gũi, sống động, rất thành thật, và rất bình dân.
Vào năm 1927, theo yêu cầu kiên quyết của Stalin, ông đã chuyển đến ở tại điện Kremlin. Lúc này ông thường bận rộn với những cuộc tranh luận trong nội bộ Đảng, Đại hội Đảng cũng đang được chuẩn bị, Anna Larina rất ít khi có thể gặp được Bukharin ở nhà. Sau đó một thời gian, Bukharin mới hiểu được rằng ông là mục tiêu những cuộc công kích của Stalin.
Trong những ngày đau buồn trước khi bị bắt, khi những tờ báo hàng ngày đưa tin rằng vụ án Bukharin đã xong (đây là một trò đánh lừa của Stalin), Nikôlai Ivanovich đã nhận được một lá thư chúc mừng của nhà thơ Boris Pasternak, bức thư đã làm ông cảm động. Sau đó, khi hay rằng hoàn cảnh của Bukharin rất nghiêm trọng, Pasternak lại viết cho Bukharin một lá thư vắn tắt: "sẽ không có một thế lực nào có thể bắt buộc tôi tin vào những âm mưu của anh". Pasternak cũng bày tỏ sự bối rối của mình trước những biến cố đang xảy ra trong nước. Nhận được một bức thư như thế, Bukharin phải sửng sốt trước lòng dũng cảm của nhà thơ, nhưng lại bắt đầu quan tâm hơn đến số mệnh của ông.
Vào thời điểm đó Stalin đã bộc lộ hoàn toàn bản chất tàn bạo của mình. Với Bukharin, Stalin đã từng là bạn bè trong nhiều năm, nhưng trong chiến dịch chống Trotxki và chủ nghĩa trốtxkít, Bukharin đã không hề giúp đỡ Stalin. Tất nhiên Stalin cũng hiểu được sự mỉa mai khi buộc tội Bukharin là gián điệp, phản bội. Tuy thế, điều ấy không làm cản trở ý đồ ám bại Bukharin của ông ta.
Đầu tháng 8 năm 1936, Nikôlai Ivanovich được phép đi săn ở vùng núi Pamirs. Hai tuần sau đó, ngày 19 tháng 8 bà Anna Larina đã sững sờ khi đọc báo hàng ngày, báo chí đã đưa tin về một phiên tòa xử cái gọi là một nhóm người liên kết với bọn Trôtxkit, nhóm người ấy đã "đưa ra những chứng cứ chống lại Bukharin". Chẳng bao lâu văn phòng Cao ủy thông báo việc tiến hành điều tra những cá nhân có liên quan đến phiên tòa, tất nhiên là trong đó có cả chồng của bà.
Sau đó, trong một chuyến bay từ Tasken, Bukharin mới tình cờ biết được mối nguy hiểm đang giáng xuống đầu mình. Ông nhìn vào tờ Izvestia và thấy tên mình vẫn còn đó, "Tổng biên tập N. Bukharin", ông nhún vai, không hiểu thế nào. Trở về nhà, Bukharin đã nói với vợ: "nhìn xem! Người chồng của em là một kẻ khủng bố, một tên phản bội?" Ba tháng liền sau đó, Nikôlai Ivanovich sống khổ sở trong căn phòng nhỏ ở nhà ông. Mục đích của "cuộc điều tra" và những bài giáo huấn đã trở thành rõ ràng.
Bukharin gửi cho Stalin nhiều bức thư, cố gắng chứng minh sự vô tội của ông và bác bỏ lời vu cáo. Những bản án đã được sắp xếp, và vấn đề đã ngã ngũ. Cuối cùng, có thông báo triệu tập Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng hai và ba, Bukharin quyết định không dự họp và tiến hành tuyệt thực. Có tiếng chuông gọi cửa, ba người đàn ông xuất hiện với một lệnh trục xuất ông ra khỏi gian nhà ở Kremlin. Vừa lúc ấy Stalin gọi điện cho ông: "việc gì vậy, ông Nikôlai?", "Ba người đến trục xuất tôi", "bảo chúng nó cút đi".
Ngày 16 tháng hai năm 1937, Bukharin chào tạm biệt cha, vợ và con của ông, và bắt đầu cuộc tuyệt thực. Ông trở nên gầy và xanh, hai mắt thâm quầng.
Vì nhiều lý do khác nhau, hội nghị Ban chấp hành đã hoãn lại. Rồi lại có một thông báo nói về thái độ chống Đảng của Bukharin. - Đó là cuộc tuyệt thực. Sau đó, Bukharin quyết định đến dự hội nghị, nhưng vẫn tiếp tục tuyệt thực.
Cái ngày định mệnh đã đến, Anna Larina nhớ rõ như thể nó mới xảy ra hôm qua. Đó là ngày 27 tháng hai năm 1937, hôm ấy Poskrysbyshev, thư ký của Stalin, gọi điện cho họ vào buổi tối, ông ta bảo rằng Bukharin phải báo cáo trước hội nghị. Không có gì diễn tả hết nỗi đau vò xé trái tim bà... Sau hội nghị ấy Bukharin đã không trở về nữa. Chẳng bao lâu sau đó, Anna Larina cũng bị bắt. Yuri, con của họ, lúc ấy chưa đầy một tuổi, phải sống ở một nhà trẻ.
Nikôlai Ivanovich tin tưởng mãnh liệt vào lý tưởng của cách mạng tháng Mười.
Ông hy vọng rằng thời kỳ đen tối của đất nước sẽ qua đi, nhường chỗ cho một nền đạo đức trong sáng và công lý. Vì thế ông đã viết một bức thư gửi "những nhà lãnh đạo tương lai của Đảng". Sợ bị lục soát, ông yêu cầu vợ phải học thuộc lòng. Sau khi biết chắc bà đã nhớ nằm lòng, ông liền hủy bức thư ấy đi. Trong suốt những năm bị cầm tù Anna đọc đi đọc lại những câu này như một bài kinh cầu nguyện:
"Tôi đang từ giã cuộc đời. Không phải là tôi cúi đầu trước lưỡi gươm vô sản mà chính tôi đang khuất phục trước sự săn đuổi. Tôi đang cảm thấy bất lực trước một guồng máy khủng khiếp, với sức mạnh khổng lồ, với những phương pháp của thời Trung cổ, để tạo ra một sự vu cáo có sắp xếp và tiến hành việc ấy một cách tự tin...
"Bất cứ một Đảng viên, một ủy viên Ban chấp hành Trung ương nào... Cũng đều có thể bị nghiền nát, bị tuyên bố là kẻ phản bội, quân khủng bố, kẻ phá hoại về gián điệp. Và nếu Stalin nghi ngờ lòng trung thành của mình, việc xác minh cũng sẽ được tiến hành lập tức.
"Tôi vào Đảng từ hồi mười tám tuổi và mục đích của đời tôi luôn luôn là sự đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp công nhân, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Bây giờ, tờ báo mang cái tên thiêng liêng là "Sự thật" (Pravda) đang đăng tải một điều dối trá đê tiện rằng tôi, Nikôlai Bukharin, muốn phá hoại những thành quả của cách mạng Tháng Mười và tái lập chủ nghĩa tư bản...
"Tôi xin nói với các đồng chí, những người lãnh đạo tương lai của Đảng, những người có nhiệm vụ lịch sử là mở tấm màn tội lỗi đang trở thành ngày càng khủng khiếp trong những ngày kinh hoàng này, chúng đang lan ra như một đám cháy và bao trùm lên toàn Đảng. Tôi đang phát biểu với tất cả các đồng chí đảng viên. Trong những ngày này, có lẽ cũng là những ngày cuối cùng của đời tôi, tôi tin rằng sớm muộn gì rồi bộ lọc của lịch sử cũng sẽ tất yếu rửa sạch vết bẩn cho tôi, Tôi chưa bao giờ là một kẻ phản bội...
"Các đồng chí nên hiểu rằng trong câu khẩu hiệu mà các đồng chí sẽ mang theo trong cuộc diễu hành chiến thắng đến chủ nghĩa cộng sản cũng có một giọt máu của tôi".
***
Vào ngày 2 tháng 11 năm 1987 Anna Larina đã ngồi suốt ngày trước máy truyền hình, cố gắng nắm lấy từng chữ trong bản báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô, đọc trong lễ kỷ niệm 70 năm cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại. Bà bối rối và lo lắng đợi một điều gì rất quan trọng đối với bà. Khi nghe những câu nổi tiếng của Lê-nin "... Bukharin... được xem là một con người được toàn Đảng kính trọng..." Bà buông một tiếng thở dài vừa ý.
Vào ngày 4 tháng giêng năm nay, tòa án Tối cao đã phục hồi danh dự cho N.I.Bukharin. Năm mươi năm sau khi Bukharin bị buộc tội và bị xử lý vì những lý do bịa đặt, công lý cuối cùng đã thắng.
LÊ HÙNG VỌNG dịch
(Theo Tạp chí Ogunyok)
(SH31/06-88)
VALENTIN HUSSON
Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.
HIỀN LÊ
Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.
Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.
TRẦN KIÊM ĐOÀN
Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.
JEAN-CLET MARTIN
Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.
Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.
MARKUS GABRIEL
Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.
ĐỖ LAI THÚY
M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…
THÁI THU LAN
Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.
NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG
Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.
ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)
Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.
LƯU TÂM VŨ
hồi ký
LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.
Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.
ALAN BURNS
William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.
Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.
NHƯ QUỲNH DE PRELLE
Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.
HÂN QUY
(Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)
PATRICIA HIGHSMITH
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Một người bạn cũ ở Mỹ kể với tôi rằng gần mười năm nay anh không đi du lịch xa, cũng không về Việt Nam, mặc dù nhớ. Tôi hỏi lý do, anh bảo vì sợ nỗi buồn chán khi phải ngồi trên máy bay mười mấy giờ.