Nhà báo Phan Quang nghiên cứu, phân tích truyện dân gian để mang tới bức tranh văn hóa xứ Trung Đông trong cuốn "Nghìn lẻ một đêm và văn minh A Rập".
Hơn một nghìn năm qua, tác phẩm văn học dân gian Nghìn lẻ một đêm có sức lan tỏa mạnh mẽ, phát triển và ảnh hưởng sâu rộng tới nghệ thuật của nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, tác phẩm đã xuất hiện trên mặt báo cách nay hơn 100 năm. Bản dịch Nghìn lẻ một đêm của nhà báo Phan Quang chuyển ngữ từ tiếng Pháp được xuất bản năm 1981, tới nay đã tái bản trên 30 lần. Những câu chuyện do nàng Sheherazade kể hầu bạo chúa Shariar trong tác phẩm đã trở thành di sản tuyệt vời của nhân loại.
Là người nghiên cứu kỹ tác phẩm văn học dân gian của xứ Trung Đông, nhà báo Phan Quang mới đây cho ra đời cuốn sách Nghìn lẻ một đêm và văn minh A Rập. Mỗi một mục trong cuốn sách là sự khám phá một khía cạnh khác nhau về A Rập như: "A Rập và người A Rập, họ là ai?", "Phác họa chân dung nhà sáng lập đạo Hồi", "Một hiện thực khác của đạo Hồi", "Khoa học thời Nghìn lẻ một đêm", "Sự khác biệt giữa người Pháp và người Thổ Nhĩ Kỳ"...
Trong sách, tác giả đưa ra giải đáp cho nhiều thắc mắc về Nghìn lẻ một đêm như: Nguồn gốc thật sự của tác phẩm? Có bao nhiều chuyện kể trong toàn bộ truyện? Tác phẩm có phải là sáng tạo của một phụ nữ?... Phan Quang cũng lý giải sức hút của Nghìn lẻ một đêm, những giá trị vượt thời gian, địa lý để trở thành tác phẩm mang tính toàn cầu.
Theo nhà nghiên cứu, Nghìn lẻ một đêm phản ánh một hiện thực Hồi giáo khác biệt so với hình ảnh về đạo Hồi phổ biến trong suy nghĩ của nhiều người. Có xuất xứ dân gian từ nhiều nguồn: Ấn Độ, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, A Rập... bộ truyện cổ mang tinh thần nhân văn sâu sắc. Đó là tiếng hát tôn vinh lao động, tinh thần kiên cường, quật khởi của con người, là lời ca ngợi quyền tự do yêu đương, mưu cầu hạnh phúc của con người. Hơn cả, bộ truyện dân gian còn là thiên sử thi về lòng dũng cảm, trí thông minh và sự phản kháng của người dân với bất công xã hội.
Mở rộng biên độ nghiên cứu, tác giả Phan Quang đặt bộ truyện cổ trong đối chiếu với Nghìn lẻ một ngày của Ba Tư - tác phẩm được đánh giá là công trình hoàn hảo nhất của nghệ thuật kể chuyện phong cách thế kỷ 18.
Tác giả Phan Quang nói lý do thực hiện cuốn sách xuất phát từ niềm say mê Nghìn lẻ một đêm của ông: "Khi bắt tay dịch tác phẩm từ tiếng Pháp sang tiếng Việt vào những năm 1970 của thế kỷ trước, tôi đọc tất cả những gì gặp được có liên quan tới bộ truyện cổ. Tôi kiên trì ghi chép một số điểm tâm đắc kèm theo cảm nhận của mình". Các ghi chép được ông dày công tìm hiểu, phát triển sâu hơn và sắp xếp, bố cục thành Nghìn lẻ một đêm và văn minh A Rập.
Theo Lam Thu - Vnexpress
PHẠM TẤN XUÂN CAO
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc Chim phương Nam, tạp bút của Trần Bảo Định, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TP. HCM, 2017).
HỒ TẤT ĐĂNG
"Từ trong sâu thẳm tâm hồn mình, tôi bỗng nhận ra rằng, cũng như bao người khác, cả gia đình tôi đã góp máu để làm nên cuộc sống hôm nay, nếu còn tồn tại điều gì chưa thỏa đáng, chính bản thân tôi cũng có một phần trách nhiệm trong đó.” (Phạm Phú Phong).
PHẠM PHÚ PHONG
Có những thời đại lịch sử nóng bỏng riết róng, đặt những con người có tầm vóc, có lương tri và nhân cách luôn đứng trước những ngã ba đường, buộc phải có sự chọn lựa, không phải sự nhận đường một cách mơ hồ, thụ động mà là sự chọn lựa quyết liệt mang tính tất yếu và ý nghĩa sống còn của tiến trình lịch sử và số phận của những con người sống có mục đích lý tưởng, có độ dư về phẩm chất làm người.
BÙI NGUYÊN
Ngửa (Nxb. Hội Nhà văn, 2017) không đơn thuần chỉ là tập truyện ngắn với nhiều hoàn cảnh thân phận và sự trầm tư riêng biệt của cư dân Sài Gòn đã cùng tác giả đồng hành qua hơn nửa thế kỷ sinh cư trên cái thành phố vốn dĩ là trung tâm sinh hoạt sôi động năng nổ với đầy đủ hương vị sống. Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi khi lần lượt mở từng trang của tập truyện ngắn ngồn ngộn hoài niệm của nhà văn Ngô Đình Hải.
NGUYỄN TRỌNG TẠO
1.
Trước khi có Hàn Mặc Tử, người ta chỉ biết có hai loài đáng trọng vọng là “Thiên thần” và “loài Người”. Nhưng từ khi có Hàn Mặc Tử, người ta mới biết còn có thêm một loài nữa, đó là “loài thi sĩ”.
NGUYỄN THỊ TỊNH THY
Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ - thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người. Hay đến mức phải gọi đó là tuyệt tác.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc Chậm hơn sự dừng lại của Trần Tuấn, Nxb. Hội Nhà văn, 2017)
TRẦN NGỌC HỒ TRƯỜNG
Tư tưởng văn học của Tản Đà (1889 - 1939) không thuần nhất mà là sự hỗn dung của “tư tưởng Nho gia, tư tưởng Lão Trang và tư tưởng tư sản”1.
MỘC MIÊN (*)
Là một trong những cây bút trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ là người có duyên thầm trong thơ mà còn có duyên kể chuyện đặc biệt là những câu chuyện dành cho lứa tuổi thiếu nhi.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Trong thơ trữ tình, lịch sử không tồn tại. Trường ca làm chúng tồn tại.
(Ý kiến của Nguyễn Văn Bổng, Xuân Cang, Nguyễn Kiên, Hà Minh Đức, Hoàng Ngọc Hiến)
Sách chuyên khảo “Sự ra đời của đế chế Nguyễn” của A.Riabinin tiến sĩ sử học Xô Viết nghiên cứu lịch sử xã hội - chính trị của Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc: Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Khoa học xã hội, 2017).
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Trong sách “Nhìn lại lịch sử”, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tác giả Phan Duy Kha viết bài “Một bài thơ liên quan đến lăng mộ vua Quang Trung”.
BÙI KIM CHI
“Tháng Tám năm Ất Dậu (1945)… Là công dân Việt Nam nên tôi đã tham gia phong trào chống xâm lăng…”. (Truyện ngắn Mũi Tổ).
TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI
Thuật ngữ triết luận gắn với tính trí tuệ hay tính triết lý trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng xuất hiện từ rất sớm.
NGUYỄN THẾ QUANG
Nói đến nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì không gì bằng đọc cuốn tự tuyện của anh. Số phận không định trước(*) đưa ta đi suốt cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ quyết liệt suốt năm chục năm qua của anh.