Quyết liệt đến cùng với thơ

09:00 31/10/2008
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)


Nguyễn Bình An viết không nhiều, in cũng ít. Lần đầu tiên ra mắt độc giả Ngày không ngờ với ba mươi sáu bài thơ và anh cũng không ghi thời điểm sáng tác dưới mỗi bài. Thật ra in ít hay in nhiều không quan trọng, cái tên người viết chẳng quyết định gì cả, ngược lại thơ định giá đúng tên người viết.
Để có ấn tượng mạnh, bất ngờ, Nguyễn Bình An phải đi từng bước một. Không dừng lại ở bước đi nào, nấc thang nào, anh muốn đập vỡ những gì mình vừa đi qua, đẩy thơ về phía quyết liệt. Sáng tạo với cuộc chơi cùng tận ngôn ngữ, được và mất, anh không hề nản chí:

Tước đoạt cưỡng dâm
quăn khô đa tình con chữ
Ám khí
Cũ mòn
ngôn từ chẳng kịp hồi sinh
tư duy vật vờ uể oải
Ngôn ngữ trong tay người viết như con dao hai lưỡi: nửa là người tình chung / nửa thiếu phụ lăng loàn (Không đề). Nếu biết sử dụng, đặt đúng chỗ sẽ thăng hoa chung thủy cùng ta, trái lại nếu tùy tiện, không kiểm soát sẽ trở thành kẻ phụ tình lăng loàn thật cay đắng. Ý thức vậy, nên khi làm một bài thơ đối với Nguyễn Bình An như đang kiến trúc một ngôi nhà, cẩn thận căn ke từng phần việc, không thể buông thả để rồi đón nhận một sản phẩm chưa vừa lòng. Ở cách nhìn khác, ngôn ngữ cũng giống như âm thanh của tiếng chim, rất phóng túng tự do rất đa điệu,nhưng: người nghe không hề biết / ý nghĩa cao hơn mọi ý nghĩa / tín hiệu tình yêu / tiếng gọi bạn tình. Chính vì ý nghĩa cao cả của cái đẹp, cao hơn mọi thứ, chính vì "con dao hai lưỡi" ấy mà người nghệ sĩ đôi khi gánh chịu những bi kịch như loài chim kia:
Âm thanh khởi nguyên trường tồn
tự do và cái chết

                                            (Giải mã tiếng chim)

Hiện thực đời sống bao giờ cũng có hai mặt, khi nhận chân đòi hỏi sự nhạy cảm và tinh tường của nhà thơ mới phát hiện bề sâu của nó. Nguyễn Bình An thường nhìn hiện thực ở mặt sau, phía khuất lấp ít người để ý. Điều này, đòi hỏi khả năng tỉnh táo của lí trí và rung động của con tim khi tiếp cận hiện tượng.
Một người ăn xin trong đêm ngang qua ngôi nhà giàu có, gặp người chào mình, anh ta sung sướng rợn người sợ hãi rợn người, vì từ lâu những số phận ấy đã bị đẩy xa đồng loại. Đến nỗi con chó vồ ra, dựng dậy bằng hai chân sau, hai chân trước chắp lại do cái vòng xích nơi cổ níu giữ, người ăn xin nhầm ai đó, thế là lấy làm mãn nguyện:

người ăn xin vô tư
đưa trọn niềm vui lẫn vào đêm
                                                         
(Nhầm)
Một bức tranh đầy kịch tính.
Nguyễn Bình An dùng nhiều thủ pháp nghệ thuật để lật trở tâm thức của mình tạo cho thơ có sức khái quát mà không chung chung, chi tiết mà không đại khái. Người ta có thể tìm được lối mòn chim bay cá lội, nhưng chẳng bao giờ tìm được / lối mòn hiển hiện / phản trắc (Lối mòn). Người ta say sưa giữa nhốn nháo tiệc tùng nghe em hát, mà không hay rằng: Trước dấu lặng…em lặng thêm mấy nhịp / Dấu lặng nghẹn ngào tiếng nấc (Hát trong tiệc vui). Người ta ung dung trên những con đường sạch bóng: coi như điều hiển nhiên / không cần biết trắng đêm trên những con đường / vắng khuya nặng nề tiếng chổi rên kinh niên / người đàn bà nhẹ nhàng chăm chút (Người đàn bà quét rác). Những nghịch lí ấy như ánh chớp bật lên tín hiệu, thức tỉnh lương tri con người. Thơ ca gắn với thân phận, gắn với tư tưởng con người, do vậy nhà thơ chính là nhà tư tưởng.
Kiên định và quyết liệt đến cùng cho nên nhà thơ mới cảnh tỉnh:

Ta biết
và nói hộ Nàng
với những người thèm muốn
đừng biến gái gọi thành Nàng thơ

đừng biến Nàng thơ thành gái gọi
                                                      
(Gửi nàng thơ)
Bởi lẽ thơ ca đang bội phát, bị lạm dụng. Vẻ thuần khiết và cái đẹp của thơ đang bị mất đi. Không thể để thơ lẫn lộn với những thứ phàm tục. Và thơ cũng không thể cam lòng: tự hãm giọng ca hào sảng / trong bình yên đớn hèn (Họa mi không trở về).
Thơ Nguyễn Bình An thiên về tứ, một thứ cấu trúc chìm. Tư duy Nguyễn Bình An là kiểu tư duy không bằng phẳng, tạo cho câu chữ góc cạnh, phóng khoáng, mà ý thơ thì rất kín đáo. Vì thế đọc anh không dễ vào, nhưng cũng vì thế mà hình thành giọng điệu riêng, khác với những người cùng thời: phút giây tuyệt vời / phút giây man rợ / đôi bọ ngựa giao hoan / cuối nỗi đam mê là sự tàn ác chân thành (Bọ ngựa).
Không có thành công nào không trải qua gian lao, có khi thất bại. Không có hạnh phúc nào không đi ra từ nỗi đau. Giống như loài bọ ngựa sau mỗi lần giao hoan, con cái sẽ nhấm nháp cơ thể bạn tình để bảo toàn nòi giống.
                 H.V.T

(nguồn: TCSH số 236 - 10 - 2008)

 

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH TRUYỀN

    Ấn tượng của tôi về Nguyên Hào bắt đầu từ một đêm thơ gần 20 năm trước. Lần đầu tiên đọc thơ trước đám đông, dáng vẻ vừa bối rối vừa tự tin, anh diễn giải và đọc bài “Rượu thuốc”: “Ngâm ly rượu trong/ Thành ly rượu đục/ Đắng tan vào lòng/ Ngọt trong lời chúc”.

  • PHẠM XUÂN DŨNG  

    (Đọc tập sách “Bên sông Ô Lâu” của tác giả Phi Tân, Nxb. Lao Động, 2021)

  • PHẠM PHÚ PHONG   

    Nguyên Du là sinh viên khóa 5 (1981 - 1985) khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là Đại học Khoa học).

  • PHONG LÊ    

    Thanh Tịnh (12/12/1911 - 17/7/1988), trước hết là một nhà Thơ mới, tác giả tập thơ Hận chiến trường (1936) với hai bài Mòn mỏi Tơ trời với tơ lòng được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam cùng với lời bình.

  • LÊ HỒ QUANG   

    Dưới “áp lực” của tiêu đề, khi đọc Thỏa thuận, gần như ngay lập tức, trong óc tôi nảy sinh hàng loạt câu hỏi: Thỏa thuận nói về cái gì?

  • VÕ QUÊ    

    Từ trước đến nay chúng tôi chỉ được đọc và trân quý thơ văn của nhà thơ Lê Quốc Hán qua những bài viết đăng trên các tạp chí, trên mạng thông tin, báo điện tử mà chưa được trực tiếp cầm trên tay một cuốn sách nào của ông.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Đọc “Phùng Quán & Tôi” của Xuân Đài, Nxb. Phụ nữ Việt Nam, 2020) 

  • HỒ THẾ HÀ   

    Hồng Nhu xuất phát nghiệp bút của mình bằng văn xuôi. Văn xuôi gắn bó với đời như một duyên mệnh.

  • YẾN THANH  

    Rất nhiều nhà văn thành danh hiện nay, sau những thành công trên trường văn trận bút, đột nhiên họ làm bạn đọc bất ngờ bằng cách chuyển hướng sang viết cho thiếu nhi, như trường hợp của Nguyễn Lãm Thắng, Nguyễn Đình Tú, Phong Điệp, Dương Thụy, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Đỗ Bích Thúy…

  • ĐỖ THU THỦY  

    1.
    Trường ca Ngang qua bình minh là ấn phẩm thứ ba của nhà thơ Lữ Mai, sau hai tập tản văn và ký sự: Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi viết về đề tài biển đảo.

  • NGƯỜI THỰC HIỆN:

    Lê Thị Mây là một cô gái cực kỳ ít nói. Nhà thơ chi thích lặng lẽ nhìn, lặng lẽ nghe, lặng lẽ suy ngẫm... Và nếu như phải nói gì trước đám đông thì đó là một "cực hình" - Kể cả đọc thơ mình - Mây vẫn như vậy.

  • NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG     

    Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng (1921 - 1988).

  • LÊ NGUYỄN LƯU

    Trong nền văn học đời Đường, thơ ca có một vị trí đặc biệt, trội hơn cả phú đời Hán, từ đời Tống, khúc đời Minh...

     

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ  

    (Đọc “Miền quê thơ ấu” - Hồi ký của Thanh Tùng, Nxb. Thuận Hóa, 2020) 

  • VÕ QUÊ   

    Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian” là công trình nghiên cứu thứ ba của nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh do Nhà xuất bản Đại học Huế cấp giấy phép, tiếp theo 2 ấn bản “Dấu tích văn hóa thời Nguyễn” (in năm 1996 và 2 lần tái bản có bổ sung năm 1998, 2000); “Giữ hồn cho Huế” (2006).

  • PHONG LÊ

    Anh "nhà quê" "chơi trèo" thành phố, với những thất bại và bi kịch khó tránh của nó. Mối quan hệ so le, bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị...


  • KỶ NIỆM 35 HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM (1957-1992) - 60 NĂM PHONG TRÀO THƠ MỚI (1932-1992)

  • NGÔ MINH

    + Cái đêm thẳm khuya Cửa Tùng gió ấy, tôi ngồi với Nguyễn Khắc Thạch bên này bờ sông, bên này chai rượu Huế, bên này mũi Si và bên này những nén nhang lập lòe như hồn ma nơi xóm Cửa!

  • VƯƠNG HỒNG HOAN

    Vài năm gần đây truyện ngắn của Triều Nguyên xuất hiện trên Sông Hương. "Tháng bảy không mưa" là tập truyện ngắn đầu tay tập hợp một số những sáng tác chưa được công bố của anh. Đề tài chủ yếu trong tập truyện là viết về nông thôn.