Ảnh: Lê Vũ Trường Giang
[if gte mso 9]> Đây là hai câu thơ mà ba tôi tâm đắc nhất và đã truyền lại cho tôi - con dâu trưởng của ba. Tôi rất thương và quý ba tôi, một mẫu người nhân hậu hết lòng với việc làng, việc họ. Bản thân ba bao giờ cũng lo giữ trọn hiếu đạo, tuy sống ly hương nhưng không lìa tổ; ba luôn cố gắng làm tròn nghĩa vụ của người kế thừa sự nghiệp của tiên tổ để lại trong một ngôi làng nổi tiếng về địa danh và có truyền thống nổi bật về việc làng, việc họ. Suốt 33 năm làm dâu họ Ngô làng Phù Bài, về thăm làng nhiều lần nhưng đây là lần đầu tiên tôi được ở lại đêm tại làng và được nghiên cứu “Phù Bài sử cương” của ba tôi để lại nhân dịp lạc thành đại trùng tu từ đường Phái Ngô Đức (thờ các ngài Ngô từ đời thứ 13 đến đời thứ 18). Tôi cảm thấy hãnh diện vì mình là con dâu của làng.
Với địa thế như vậy, theo ba tôi thì làng Phù Bài có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển về văn hóa và xã hội. Về văn hóa, lớp học đầu tiên của làng đặt tại nhà tăng của Ngài Đại tông, sau đó làng mới bắt đầu xây dựng một ngôi trường bằng ngói có 3 lớp học bên cạnh đình làng, lúc đầu chỉ có 20 học sinh, dần dần lên đến 50 học sinh và phát triển dần thành một trường học có 5 lớp vào năm 1945. Đến năm 1954, làng xây cất thêm 3 phòng học nữa để hoàn chỉnh một trường tiểu học có đủ phòng ốc và bàn ghế cho học sinh ngồi. Năm 1962, làng mở thêm một trường trung học đệ nhất cấp (trung học cơ sở bây giờ) với 300 học sinh ban đầu. Đa số học sinh học hết trường làng thì lên huyện hoặc tỉnh để học tiếp trường trung học đệ nhị cấp (trung học phổ thông). Tốt nghiệp được tú tài toàn phần thì theo học các trường Đại học ở Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn. Con cháu đời nay của làng có nhiều người đỗ đạt được học vị cao: kỹ sư, bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ, giáo sư… Để khám chữa bệnh cho dân, năm 1958, trong làng mới bắt đầu xây dựng được một nhà bảo sanh bằng ngói với 10 giường do ngân quỹ của Hội Phước thiện bảo sanh xã. Công trình này được khởi công xây dựng dưới sự giám sát của ông hội trưởng là cụ Thất phẩm Ngô Đức Tháo. Về sau, nhà bảo sanh này được cải tiến thành bệnh xá khang trang với 20 giường nằm cho bệnh nhân và 10 giường nằm cho sản phụ, có thêm phòng khám bệnh, phòng phát thuốc và có y sĩ điều trị. Ngày xưa, dân làng họp chợ vào buổi chiều trên một khu đất cạnh đình làng bên sông. Năm 1947, chợ được dời về họp trên một đám đất gần đầu cầu quốc lộ về phía bắc. Đến năm 1954, thấy khu đất họp chợ chật hẹp nên ông xã trưởng Ngô Phước Truyền đã cho dời chợ sang địa điểm ở phía nam cầu quốc lộ. Nơi đây, đường sá giao thông tiện lợi nên dân cư các vùng lân cận như Tô Đà, Tân Tô, Nong, Truồi… đến họp chợ đông đúc; thậm chí có bạn hàng ở Huế mang hàng hóa, vải vóc, áo quần về bán; lại có cả bạn hàng ở đầm Cầu Hai mang cá, tôm tươi đến bán rất đông đảo. Chợ Phù Bài trở thành khu thị tứ lớn phồn vinh nức tiếng một vùng. Đã lâu đời, làng có một ngôi chùa bằng ngói ở đầu làng (ấp 7), phong cảnh ở đây thanh u, tịnh mịch, gần núi, cạnh sông, cách xa nhà ở để thờ Đức Phật tổ. Hàng ngày có một thầy tăng tụng kinh niệm Phật. Làng dành một mẫu ruộng để cúng lễ hàng năm như lễ Phật đản, lễ Thành đạo, lễ Vu lan, các ngày vía Phật và rằm tứ quý. Đến năm 1960, khuôn hội Phật giáo xã được thành lập và đã xây cất “Niệm Phật đường” bằng ngói cao ráo, rộng rãi, khang trang giữa làng cạnh đường quốc lộ để phật tử dễ dàng đến lễ bái, có một vị đại đức trụ trì niệm Phật. Xưa làng Phù Bài không có một người Công giáo nào, đến năm 1928 có một đức cha đến truyền đạo tên là cha Bá. Khi đó trong làng mới có 3, 4 gia đình theo đạo Công giáo. Sau đó các cha cố Thiên Chúa giáo về làng xin sở đất tại xứ Kênh Giàng để xây nhà thờ truyền đạo và con chiên đến lễ. Đặc biệt dưới thời Pháp thuộc, làng Phù Bài được xây dựng một phi trường trên một bãi truông cát lớn, rộng hơn 3km, dài 4km. Đây là một phi trường có hạng ở Việt Nam cách thành phố Huế 13km. Cũng nhờ vậy mà người trong nước cũng như nước ngoài đã biết đến địa danh Phù Bài, quê tôi. Tôi cảm thấy tự hào về đất nước tôi, về làng Phù Bài quê hương tôi với truyền thống vẻ vang của dòng họ Ngô mở đầu là Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân. Ngày ấy, Ngài luyện Tiên phù, dạo chơi miền sơn thủy, thấy vùng đất Phù Bài có bề thế đẹp, non nước hữu tình, địa thế rộng lớn, có thể sinh cơ lập nghiệp được lâu dài, vĩnh viễn nên ở luôn tại đất Việt dựng cõi đắp bờ, khai khẩn đất hoang để mở làng. Lúc đầu rừng núi còn hoang vu, cây cối um tùm, gian tặc, tà ma còn lẩn trốn nhiều nơi, thú dữ thường hay quấy nhiễu dân làng, phá hoại mùa màng. Với pháp thuật cao cường, mưu chước, Ngài mới tiêu trừ được gian tặc, thú dữ, đem lại cuộc sống an lành, hạnh phúc cho dân làng. Do đó dân làng rất biết ơn Ngài và ca tụng Ngài qua hai câu ca dao truyền đời : Đức Ông thiệt đấng có tài Phép cao đuổi tặc chạy dài khiếp oai Ngày xưa, hàng năm, khi tế Giang sơn và Thiên thần xong thì làng sắm trầu rượu, lễ vật làm lễ tạ ơn Ngài đã có công đầu trong việc sáng lập và gây dựng cơ đồ cho làng. Sau khi Ngài thọ chung, làng lập điện thờ Ngài do Tự Thừa phụng tự, có trùm gia tơ lo lễ vật tế lễ và 2 từ phu trông giữ điện thờ. Làng tôi nổi tiếng về việc thờ tự, lễ nghi. Theo gia phả dòng họ Ngô thì kế thừa Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân là các Ngài truyền đời kế tiếp: Ngài Khai canh đại tông, Ngài Tùng bổn thổ khai khẩn, Ngài Dự bổn thổ khai khẩn và các Ngài Thủy tổ các tộc. Việc thờ tự các Ngài, làng tôi phân công phụng tự như sau: Ngài Bổn thổ Thành hoàng do Tự thừa phụng tự (nhiệm kỳ của Tự thừa là từ 4 đến 5 năm). Ngài Khai canh đại tông cho Chánh trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Chánh trưởng là 3 đến 4 năm). Ngài Tùng bổn thổ khai khẩn. Ngài Dự bổn thổ khai khẩn do Hương trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Hương trưởng là 3 đến 4 năm) và Ngài Thủy thổ các tộc do Tộc trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Tộc trưởng là 2 đến 3 năm). Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân là một bậc “Nhân thần” đem lại hạnh phúc cho dân làng, được tôn phong công thần “Hộ Quốc Tý Dân”, được triều đình liệt vào tự điển và trải qua sáu triều đại sắc phong, Ngài được tặng Quang ý Trung đẳng Thần. Ông nội tôi, cụ Tự thừa Ngô Đức Trác phụng tự Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân được hai nhiệm kỳ. Theo lời ba tôi, làm việc làng, việc họ rất công phu, chí công, vô tư và nhất là phải có cái tâm thì mới đảm đương được công việc; phải làm ruộng hương hỏa có nếp gạo để bày cỗ tế tự, nuôi heo để giỗ chạp hàng năm, hội họp làng họ. Công việc này phải trải qua hàng chục năm mới thành thục được. Theo tục lệ của làng, Tự thừa, Chánh trưởng, Hương trưởng, Tộc trưởng khi nhậm chức phải thiết lễ yết kiến thủy tổ và làm tiệc khao đãi làng xóm, họ hàng và nhất là phải một lòng phụng tự các Ngài chu đáo. Điện thờ các Ngài tọa lạc tại xứ Thành Võ gần lăng mộ. Dưới triều Nguyễn, ngôi chính điện được tu tạo lại bằng ngói âm dương, ba gian, hai chái; có tiền đường, hậu chẫm. Phía trước có xây cửa tam quan, trụ biểu, la thành; có hồ thủy tạ, cây cối xanh tươi. Trên nóc tiền đường có khắc bốn chữ “Hiển Hách Anh Linh”. Ngoài việc phụng thờ các Ngài, hàng năm làng còn tổ chức ba đại lễ là tết Nguyên Đán, Đại tế Kỳ phúc và lễ Thanh minh. Trải qua bao thế kỷ, điện thờ các Ngài vẫn được con cháu truyền đời phụng tự chu đáo và trùng tu nhiều lần, trở thành một ngôi điện uy nghi, khang trang, đẹp đẽ. Đây là di sản tinh thần vô cùng quý báu của dòng họ Ngô làng Phù Bài. Đêm nay, ở lại đây tại ngôi làng Phù Bài trong nhà thờ Phái Ngô Đức, lòng tôi bồi hồi, xúc động. Ngày mai, Phái tổ chức lạc thành đại trùng tu từ đường. Nhìn ba gian điện thờ uy nghi, sáng rực đèn hoa, tôi chạnh nhớ đến ba tôi. Ba ơi! Uống nước nhớ nguồn. Phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng họ Ngô làng Phù Bài, chúng con đã thực hiện đầy đủ di bút của ba để lại. Xin mượn lời thơ của ba tôi - cụ Phù Sơn Ngô Đức Đoàn để chấm dứt bài này: Phù Bài có động Sơn Phèn Có đồi Ngũ Nhạc có dòng Cừ Giang Có hòn núi Thiết danh vang Có rừng Thuận trực, có truông cát dài Bảy ngàn sáu mẫu hoang khai Hai ngàn hai mẫu đất đai ruộng đồng Đông tây hai giáp mêng mông Lòng Dân muôn thuở nhớ công Thành hoàng. 11.2011 B.K.C (274/12-11) |
THÁI KIM LAN
Nhân kỷ niệm 120 năm trường Quốc học Huế
Được sự cho phép của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, từ ngày 7/10/2016, Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Viện Khảo cổ học mở hố thám sát thăm dò dấu vết lăng mộ vua Quang Trung tại gò Dương Xuân (Trường An, TP Huế) với diện tích 22 m2.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Di tích lịch sử Đình Dương Xuân Hạ nằm ở khu vực thuộc làng cổ Dương Hóa, với bề dày lịch sử trên dưới 500 năm.
HOÀNG NGỌC CƯƠNG
LGT: Trong quá trình tìm hiểu về sự nghiệp trước tác của Thái sư - Tuy Thịnh Quận công Trương Đăng Quế (1793 - 1865)(1), chúng tôi đã phát hiện ra bài tựa Ninh Tĩnh thi tập tự [寧靜詩集序: Bài tựa Tập thơ Ninh Tĩnh]; được in trong sách Trương Quảng Khê công văn tập [張廣溪公文集: Tap văn của ông Trương Quảng Khê], từ tờ 29a - 30a, tập sách hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, dưới ký hiệu R.315.
TÔN THẤT BÌNH
Kim Long (còn được gọi là Kim Luông) vốn là đất các chúa Nguyễn chọn nơi lập phủ từ năm 1636 đến 1687. Năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Trăn mới dời phủ về Phú Xuân, cách Kim Long chỉ 3 cây số, dọc theo bờ Sông Hương.
CAO THỊ THƠM QUANG
Kinh thành Huế là tòa thành ở Cố đô Huế, nơi đóng đô của vương triều Nguyễn trong suốt 140 năm từ 1805 đến 1945. Hiện nay Kinh thành Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào ngày 29 tháng 3 năm 1993.
TRẦN VĂN DŨNG
Vừa qua, sau khi tấm hình chụp về Ngọ Môn không có 8 bộ mái lợp ngói thanh lưu ly ở lầu Ngũ Phụng xuất hiện trên các trạng mạng xã hội đã lôi cuốn một lượng lớn độc giả quan tâm tìm hiểu, đã có nhiều ý kiến bình luận đưa ra khác nhau.
TRẦN VĂN DŨNG
Nhà vườn truyền thống là di sản đặc trưng tạo nên bản sắc văn hóa Huế, ảnh hưởng lớn đến việc hình thành tính cách, tâm hồn của con người xứ Huế.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Triều Sơn, một tên làng đã vào dạ người Huế bao đời nay, qua câu hò ru em vời vợi. Nhiều người Huế nghĩ rằng làng Triều Sơn chuyên buôn bán, với cụm từ “Triều Sơn bán nón” có trong bài hò ru em phổ biến.
THANH HOA - LÊ HUỆ
Chợ Đông Ba có vị trí đắc địa khi nằm ở trung tâm thành phố Huế, dọc bờ sông Hương, bên đường Trần Hưng Đạo, cách cầu Trường Tiền khoảng 100m về phía Bắc. Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân xứ Huế mà còn là nơi để du khách tìm hiểu văn hóa vùng đất Cố đô.
VÕ QUANG YẾN
Tạp chí Sông Hương đã có nhiều lần đề cập đến vấn đề sông Hương và cầu Trường Tiền, nhất là về năm xây cầu: Phan Thuận An, Phụ trương đặc biệt số 2; Quách Tấn, số 23; Hồ Tấn Phan, Nguyễn Thị Như Trang, số 29.
“Màu vàng lồng lộng chảy tràn lá xanh” là bộ sưu tập 11 chiếc áo dài xưa, bảo vật của gia đình Tiến sĩ Thái Kim Lan, gồm long bào Vua Khải Định, áo dài gấm the, áo mệnh phụ, áo lụa vàng, áo dài Hoàng thái hậu, áo mệnh phụ công nương, áo gấm xanh rêu, áo xiêm, áo dài lụa vân xanh... Được sự hỗ trợ của Viện Goethe tại Hà Nội lần này bộ sưu tập được đưa từ CHLB Đức về trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Huế, từ 18/5 đến 12/6/2016. Nghệ sĩ sắp đặt Veronika Witte, cũng từ CHLB Đức, trực tiếp thực hiện trong một không gian vô cùng lý tưởng. Tại phòng trưng bày chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh chủ nhân bộ sưu tập.
PHẠM HỮU THU
Những ai đã từng qua lại con đường Ngô Quyền, hẳn sẽ mừng vui khi thấy nơi này vừa xuất hiện một công trình mà nhiều người quen gọi là Bệnh viện quốc tế Trung ương Huế. Đây là mô hình xã hội hóa được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Y tế và Bệnh viện Trung ương Huế là đơn vị đầu tiên của cả nước (trong số 18 bệnh viện) được Chính phủ cấp tín dụng ưu đãi nhằm hiện thực hóa chủ trương này.
LÊ QUANG THÁI
Một thời trong quá khứ xa gần, người phương Tây đã từng gọi và như đặt tên cho Đô thành Phú Xuân Huế là “thành phố quan lại”.
Một số thông tin chung
Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015. Trong đó có cho biết:
Một số thông tin chung
Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Hội quán Quảng Tri hiểu một cách nôm na ý nghĩa về cái tên của hội quán này là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật... nhằm mở rộng sự hiểu biết.
LTS: Trong thời gian qua, báo chí trong nước đã phản ảnh về việc Hội Quảng Tri - nơi diễn ra các hoạt động khai trí ở Huế đầu thế kỷ 20 - được đề xuất phá dỡ, xây mới để làm …trụ sở UBND phường.
Đề xuất này khiến người dân Huế và những người yêu Huế nói chung, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ Huế nói riêng lo lắng, nhiều ý kiến đề nghị cần cẩn trọng.
ĐỖ XUÂN CẨM
TƯỞNG HAI LÀ MỘT, NHƯNG MỘT MÀ HAI
Nhắc tới cây Bồ đề, hầu như đa phần người dân xứ Huế có cảm giác rất thân thuộc.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Từ năm 1917, tạp chí B.A.V.H đăng bài “Cầu ngói Thanh Thủy” của R.Orban. Trong bài nghiên cứu này ngoài phần khảo tả cầu ngói, tác giả đã công bố bản dịch đạo sắc do vua Lê Hiển Tông ban khen bà Trần Thị Đạo, người có công đóng góp tiền của xây dựng cầu ngói Thanh Thủy.