Phòng trà ca nhạc Sài Gòn xưa: Tuấn Ngọc, chàng ca sĩ riêng một góc trời

15:44 03/11/2016

Nếu viết về phòng trà Tự Do mà chỉ nói đến Khánh Ly và Lệ Thu thì đúng nhưng chưa đủ, bởi ở đây còn những giọng ca trẻ có khán giả riêng của mình.

Ban nhạc The Strawberry Four. Từ trái qua: Đức Huy, Tùng Giang, Tuấn Ngọc, Billy Shane

Một bài trên báo Kịch Ảnh cách đây hơn 45 năm đã viết về Tuấn Ngọc như sau: “Tiếng hát làm ngây ngất người nghe từ đàn ông, đàn bà người VN hay ngoại quốc... đều mê tiếng hát của Tuấn Ngọc”.

Tuấn Ngọc tên thật Lữ Anh Tuấn, sinh năm 1947 tại Đà Lạt, là con thứ trong một gia đình nghệ sĩ. Bố là nghệ sĩ Lữ Liên của ban AVT, chị là Bích Chiêu. Các em như Khánh Hà, Thúy Anh, Anh Tú đều ở trong ban nhạc Blue Jets hằng đêm hát ở phòng trà Tự Do. Tuấn Ngọc chập chững đến với ca nhạc từ năm 1952 trong ban ca nhạc thiếu nhi Đà Lạt. Sau đó, anh theo bố về Sài Gòn, có mặt trong ban thiếu nhi Đài phát thanh Sài Gòn dưới sự hướng dẫn của bố.

Khi Sài Gòn có phong trào thành lập những ban kích động nhạc chơi trong những club Mỹ, Tuấn Ngọc tuần tự hợp tác với những ban nhạc The Black Caps, Blue Jays, The Strawberry Four, The Revolution. Sau nhiều năm hợp tan, tan hợp, anh quyết định hát độc lập, không thành lập ban nhạc nữa, không nương tựa vào bè bạn nữa.

Đến bây giờ, có lẽ Tuấn Ngọc nhận thấy đây là một quyết định đúng của mình. Lúc đi diễn chung với Billy Shane, Đức Huy, Tùng Giang trong The Strawberry Four, Tuấn Ngọc là một gương mặt... chìm lỉm. Billy Shane với gương mặt giống người nước ngoài, ngộ nghĩnh hay giữ giọng hát chính, Tùng Giang sôi nổi rộn ràng với những màn solo trống cùng những nhịp điệu và sắc thái mới mẻ, Đức Huy thì trắng trẻo, đẹp trai còn Tuấn Ngọc chẳng có sắc thái gì nổi bật...
 
Phòng trà ca nhạc Sài Gòn xưa: Tuấn Ngọc, chàng ca sĩ riêng một góc trời - ảnh 1
Ca sĩ Ngọc Anh

Có dịp gặp danh ca này tại một quán cà phê ở TP.HCM, anh bộc bạch về quan niệm ca hát của mình: “Tôi thích nhất một câu nói của người Mỹ là Be yourself - hãy là chính anh, trong nghệ thuật và tôi nghĩ trong lĩnh vực nào cũng vậy. Hãy là chính mình chứ không trộn lẫn với người khác. Nếu anh ra đời sau, mà không tìm được cách để “là chính mình” thì anh không thành công được”. Việc rời khỏi các ban nhạc, đứng một mình, theo anh, trong nghệ thuật cũng có sự may mắn. Anh nói: “May mắn là lúc đó không có ai hát kiểu như tôi nên mới có Tuấn Ngọc ngày nay và bây giờ cũng vậy, không ai hát như tôi. Nếu một số ca sĩ trẻ bây giờ, có tài, hát giống tôi chắc tôi đi đứt”. Ký giả Quỳnh Như trong báo Kịch Ảnh đã nhận định về sự “may mắn” của anh như sau: “Tuấn Ngọc thường hát nhạc ngoại quốc, với cái giọng đặc biệt đàn ông mà một vài người gọi là Jack Jones”. Nghe lại “mặt bằng” các ca sĩ nam hát nhạc ngoại quốc lúc ấy, quả là Tuấn Ngọc có một giọng hát rất lạ.

Tuấn Ngọc kể cho chúng tôi nghe khi bắt đầu tập hát riêng, mỗi bài anh phải tập hát theo băng nhạc nước ngoài, rồi thu băng lại để nghe: “Trời ơi, sao mà tôi hát dở tệ, chịu không nổi. rồi tôi tập hát lại, nghe lại đến khi nào tôi có cảm giác rằng nghe được mới thôi...”.

Luyện tập, luyện tập suốt ngày với máy Akai, nghe và hát, hát và nghe đến lúc trời cũng không phụ lòng người. Sự kiên nhẫn của anh đã được đền đáp bằng một giọng ca “đam mê, khắc khoải, êm đềm, nồng nàn, mời gọi”. Một bài viết trên báo Kịch Ảnh đã ca ngợi chàng ca sĩ 25 tuổi: “Trên sân khấu, sự xuất hiện của Tuấn Ngọc bao giờ cũng đẹp và như có một cái gì trang trọng”.

Tuy nhiên, vào những năm đó, Tuấn Ngọc lại dính vào xì căng đan cùng với Đức Huy đánh Trường Kỳ tại nhà Jo Marcel khi “vua nhạc trẻ” này viết bài phê bình ban nhạc của họ...
 
Hai giọng ca nữ được ưa chuộng
Nhiều người không biết Khánh Ly có một cô em ruột cũng là một ca sĩ tên Ngọc Anh. Ngọc Anh không đi theo con đường hát nhạc trữ tình của chị, mà hướng theo con đường nhạc trẻ. Sau một năm hát ở phòng trà Tự Do, Ngọc Anh tiến bộ vượt bậc và thoát khỏi ảnh hưởng là “em ruột của Khánh Ly”, khi chuyên trình bày nhạc nước ngoài. Ngoài giọng ca, Ngọc Anh còn được yêu thích bởi có ngoại hình bắt mắt. Sau khi đi Mỹ hát cùng chị và Ngọc Minh, về Sài Gòn (năm 1971) Ngọc Anh biến mất khỏi phòng trà Tự Do vì “chồng không cho đi hát phòng trà nữa”. Các nữ ca sĩ phòng trà, khi lấy chồng thì coi như... xong!
Còn Uyên Phương bắt đầu con đường ca hát tại các club Mỹ ở các căn cứ Long Bình, Biên Hòa, sau đó “nhập tịch” vào phòng trà Tự Do để hát cho người Việt nghe, vì “hát cho tụi Mẽo nghe chán lắm”. Khi hát ở phòng trà dành cho dân Sài Gòn, giọng ca Uyên Phương như được chắp cánh và khán giả cảm tưởng giọng ca Uyên Phương phảng phất khuôn thước của giọng ca Bạch Yến những năm xưa.
Đang hát ngon trớn, Uyên Phương bỗng dính vào vụ xì căng đan với ông hoàng Ả Rập nào đó. Cô bỗng nhiên bỏ hát phòng trà và biến mất, đến năm 1971 mới quay trở lại và cũng vẫn hát cho Tự Do ngày cũ. Xuất hiện trên ti vi với bản nhạc Thung lũng hồng của Phạm Mạnh Cương, tiếng hát của Uyên Phương vẫn như thấm đượm một nỗi buồn của bầu trời mùa đông nào đó.

Theo Lê Văn Nghĩa - TNO

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.