Phi Tân: Nhà quê chánh hiệu

10:23 22/05/2020

PHẠM XUÂN DŨNG  

(Nhân đọc tập tản văn Ngoại ô thương nhớ của Phi Tân, Nxb. Trẻ, 2020) 

Ảnh: internet

Nhà báo viết văn xứ Huế khá nhiều, thiên hạ gọi đùa những người làm báo viết văn là “hai tay hai súng”, mỗi người một vẻ. Riêng Phi Tân thì có thể nói là văn sĩ của làng, một tay nhà quê chánh hiệu, mà phải là nhà quê xứ Huế.

Cuốn sách có 65 bài, chia làm ba phần. Phần một “Chuyện làng” 33 bài, phần hai “Nhớ tết” 13 bài và phần ba “Chút phố” 19 bài. Có cảm giác Phi Tân nhìn đâu cũng thấy đề tài, thượng vàng hạ cám đều có thể đi vào trang viết một cách tự nhiên. Nhìn qua tên gọi các bài viết cũng có thể cảm nhận đôi phần: “Con cá, rạnh nưa”, “Chuyện đi họ”, “”Đò ơi”, “Mưa giông”, “Đèn dầu”, “Đời hến”, “Hơi ấm mùa đông”, “Mùi lá cuối năm”, “Khói rơm”... Có chuyện cũng viết, không có chuyện cũng vẫn viết được mà lại viết ngọt. Đúng là một “văn nhân nhiều chuyện”.

Mở đầu cuốn sách là “Boléro chợ Nọ”. Đúng rồi, nói về làng quê xứ Huế cũng như nhiều nơi khác là nói đến bolero và ngược lại. Mà bolero chợ Nọ thì tiếng tăm nổi như Cồn Hến. “Nói thiệt muốn khắc họa chân dung của một làng quê xứ Huế thì phải có nhạc boléro. Ở Huế có câu hay “boléro chợ Nọ”.

Vậy nên tác giả nói lên trải nghiệm bolero không chỉ của riêng mình bằng phương ngữ xứ Huế: “Hèn chi nhiều người nói: “Nghe dạc dớ dau!” (nghe nhạc mà nhớ nhau) là ri đây...”.

Ký ức quê nhà thường khi chẳng có gì to tát. Là dư ảnh, dư hương, dư vị bảng lảng trong cồn cào nỗi nhớ như “Chén nước chè xanh”. Người mệ bán chè xanh từ thời thôn nữ tóc để đuôi gà. Đôi chân Giao Chỉ chỉ quen đi bộ từ thời chập chững khắp trong xóm ngoài làng, kĩu kịt gánh một đời cần lao trên đôi triêng gióng như gánh cả quê nhà: “Lời lãi chẳng bao nhiêu, lại thức khuya dậy sớm; nhưng đó là niềm vui tuổi già của nội, bà vốn quen với không khí chợ đò từ thời con gái. Đến khi già yếu, không đi xa được nữa, mệ vẫn mua lại chè xanh của người khác để bán, cốt miễn răng có chỗ ngồi ở chợ để được bán, được mua, để nghe chuyện này chuyện nọ trong làng...”.

Phi Tân viết hơn chục bài về Tết, ý vị tuy có khác nhau song bày biện như thể mâm cơm tất niên quê kiễng mà đậm đà, không mâm cao cỗ đầy nhưng đã ăn vào là nhớ và xa rồi thì cũng khó quên. Người đọc dễ đồng cảm với người viết bởi góc nhìn cận cảnh và tinh tế khi nói về “Tháng Chạp”. “Tháng Chạp về thèm gió lạnh với mưa phùn. Chỉ trong tiết trời se sắt như rứa mới cảm được hơi ấm của những mâm cúng Tổ, rồi cúng tất niên đặt trước sân nhà ai phảng phất mùi khói của hương, của trầm; hay những bước chân vội vã trên các ngã đường, con phố đón xe để kịp mang bao yêu thương về quê cũ. Cái lạnh chúm chím trong từng nụ hoa mầm lá đang ấp ủ trong những nhành cây với bao sắc màu trắng xanh vàng đỏ chờ năm mới đến là bung xòe.

Tháng Chạp về, lòng cứ nôn nao chực trút áo thị thành về với làng quê
...”.

Phi Tân viết về làng để nhớ làng thì đã hẳn, nhưng ngay cả khi viết về phố gần hai chục bài thì nỗi nhớ vẫn khôn nguôi, hầu như đâu đó vẫn thấp thoáng hình bóng quê nhà, vẫn là tự sự của một truyền nhân rơm rạ. “Trút áo thị thành”, “Nông dân thành phố”, “Qua cầu Ca Cút”, “Chút quê giữa phố”, “Thương cánh đồng gầy”, “Ngoại ô thương nhớ”... Này đây thị thành, phố xá của anh khi kể về “Mưa Huế lụt Huế”:

“Viết về mưa Huế tôi cứ nhớ mãi câu: “Mưa như thể đã mưa từ kiếp trước”. Nhớ văn nhưng đọc lâu rồi nên không nhớ tác giả.

Những ngày xa nhà làm quen với đời sinh viên ký túc xá. Mưa Huế đã thử thách lòng người. Mưa một trộ từ sáng đến trưa rồi từ chiều đến đêm. Nằm co ro trên chiếc giường tầng đơn và không ngủ được vì mưa, vì con ệnh oạng nó kêu mà nhớ nhà, nhớ hơi ấm những đêm mưa mấy anh em chui vô một chiếc mền mỏng mà đùa giỡn đủ trò cho đến khi tắt đèn đi ngủ...”.


Chỉ ngần ấy thôi, tưởng không có gì quan trọng nhưng hồi ức về mưa vẫn có nét riêng của Huế.

“Ngoại ô thương nhớ” là câu chuyện không đầu không cuối về những đặc sản hoa quả của vườn xứ Huế: thanh trà, nhãn lồng, cam... thành một vành đai xanh ôm ấp Cố đô. Và có những ngôi làng văn vật như Lại Thế làm nên một nét son của tính cách Huế: “...lòng bỗng nhẹ tênh như cây cỏ khi ngắm ngôi nhà rường xưa kiểu Huế từ kiến trúc, hoa văn, màu sơn; đôi câu đối sơn son thếp vàng trên hai tấm gỗ mun đen trước gian thờ gia tiên. Rồi mái ngói liệt sẫm màu rêu xô nghiêng và cả nền gạch hoa đã bạc màu theo năm tháng. Sự hài hòa của những ngôi nhà như thế dường như đã nói lên tính cách, phong thái và tâm hồn của những chủ nhân ngôi nhà. Những tâm hồn nhẹ nhàng như hoa, như lá; như những giọt mưa, màu nắng nô đùa vô ưu trên mái ngói thời gian”.

Văn của Phi Tân ý tứ dồi dào, lối viết giản dị lại không câu nệ nên phóng khoáng, giọng điệu “nhà quê” lại giàu chi tiết, đặc biệt là mạnh dạn dùng phương ngữ xứ Huế nên tạo nên phong vị và thần thái vùng miền. Bởi vậy, văn của anh có duyên riêng, đọc vào là biết và ngấm. Với nhiều tác phẩm, anh đã kéo những nghìn trùng xa cách về lại bên mình và khiến cho những điều gần gụi phút chốc bỗng như trở nên khói sương xa ngái.

Vẫn luôn mong anh đi trọn con đường văn sĩ của làng. Mượn cách nói của nhà thơ Nguyễn Bính để đùa mà thật với tác giả Phi Tân: “Xin anh, anh hãy giữ nguyên quê mùa...”.

P.X.D  
(TCSH374/04-2020)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)