Pháp trường trắng

10:19 10/09/2008
NHẤT LÂMKinh thành Huế năm Bính Thìn, thiên hạ xôn xao vì một vụ án đại hình gây bất bình trong cả nước, và để lại cho hậu thế một nỗi tiếc thương khôn nguôi cho hai nhà chí sĩ.

Tên quan cai trị cáo già ở Trung Kỳ đã đích thân ra Hà Nội để mật bàn với Toàn quyền Đông Dương. Toàn Quyền chỉ thị:
- Phải làm lúc bất ngờ, nghĩa là vào lúc rạng sáng. Ngoài việc canh phòng cẩn mật nơi pháp trường còn việc không dùng binh lính An Nam. Những cai, đội… có nghi vấn thì chuyển xa kinh thành hay cấm trại, mà giao cho lính Lê Dương dưới sự chỉ huy của sĩ quan ưu tú.
Người Pháp chúng ta đứng đằng sau mà để cho mấy ông đại thần hành sự theo lệnh mật của ông Khâm sứ…
Cần đề phòng dân Trung Kỳ, đặc biệt là dân Quảng , Quảng Trị gần với Huế nên dễ tụ tập…
Khâm sứ Trung Kỳ - vốn là tên quan cáo già xứ thuộc địa - cất mũ chào cấp trên lên xe trở vào Huế. Và việc chém đầu hai chí sĩ đã giam trong ngục tối chỉ còn đợi nay mai.
Từ vụ sưu thuế năm Mậu Thân, kinh thành Huế vốn âm thầm đã sục sôi kéo dài cho đến năm 1925.
Nhưng bây giờ đang là năm Bính Thìn (1916) vào tháng tư âm lịch. Tháng bắt đầu nắng hè chói chang và ve sầu tấu nhạc dọc hai bờ sông Hương vốn lặng lẽ chảy qua kinh thành biết bao biến động. Các cụ già đất thành kinh, các tỉnh lân cận theo dõi mọi diễn biến sự việc. Sau vụ sưu thuế, các nhà đại khoa bảng yêu nước lần lượt bị đày ra Côn Đảo, với mức án 10 năm, chung thân, có vị ra pháp trường bằng án chém thời Trung Cổ mà Tây Phương đã dẹp từ lâu.
Lần này hai chí sĩ bị giam rất bí mật ở ngay kinh thành. Cuộc mưu sự công phu đến vậy mà bị phát giác dẫn đến nông nỗi này thì cách mạng trời nam ta còn gian nan và những người con ưu tú của giống nòi còn chịu đau thương thê thảm. Nhiều vị quan còn giữ được ý thức với dân tộc, nặng lòng với non sông, biết trọng nhân cách đã từ quan lui về sống cho sạch lương tâm.
Ngày hành hình được giữ tuyệt mật, nhưng rồi chuyện mật đến đâu các mệ, các bà cũng biết được. Quan bà biết chuyện từ quan ông, rồi các quan bà vốn là những tay chơi bài tứ sắc, chuyện từ miệng bà quan Tham tri, Thị lang… xuống bà Tuần, bà Án biết mà rò rỉ thông tin đến dân chúng.
Có điều trước khi nói bà nào cũng nghiêm sắc mặt dặn rằng: Đừng có nói lại với ai mà vạ lây, bà được nghe hứa hẹn và thề với trời đất… đó là cách làm cho chuyện xưa nay vốn nghiêm cẩn nơi cung cấm cũng lộ bem ra dân thường. Các mệ mà gặp nhau ở chiếu tứ sắc trong cảnh mưa phùn xứ Huế bên cái lồng ấp than hồng, nhai trầu đỏ thắm miệng và nồng vôi thì không có chuyện gì từ xa xưa của vua nọ vua kia, rồi quan ông đại thần, quan bà lục bộ… đều được thuật lại rành mạch còn hơn sử sách.
Trước ba ngày, trời mưa cả ngày đêm, tối sầm như ngày tận thế. Hôm sau trời tạnh ráo sáng hẳn lên, sau mưa trời nắng đẹp là quy luật của tạo hoá. Nhưng mưa vào tháng tư là chuyện không bình thường.
Nhưng lạ lùng là đêm nay không trăng mà sáng như có phép lạ. Canh ba u ám một lúc, đến gà gáy lượt đầu thì rực sáng, và có hai vì sao từ nơi dựng pháp trường theo hình trôn ốc vút thẳng lên cao, bay qua kinh thành theo hướng nam và tắt ở phía đèo Hải Vân như hai cục lửa từ trời xanh xuống đất Quảng .
Điều lạ này ít người biết, vì giờ phút xảy ra khuya khoắt quá. Riêng cụ cử Dương Văn Hoè mấy đêm không ngủ, không ngủ không vui mà chẳng biết giãi bày cùng ai mới thêm sầu não.
Sau vụ sưu thuế năm Mậu Thân, cụ cử đang giữ chức Thị Độc Hàn Lâm biên tu, bị nghi có dính líu với những nhà đại khoa bảng lừng danh đã bị đày Côn Đảo. Vâng lệnh tên cầm đầu Pháp ở Trung Kỳ, lấy cớ bổ dụng, bọn tay sai của Pháp đày cụ lên KonTum, coi như đẩy đi xa Huế một người nặng lòng với vua Thành Thái. Viện cớ đau yếu mà tuổi đã cao, không thể nhận chức nơi chướng khí, cụ xin cáo quan.
Làng cụ ở Tây Bắc kinh thành, cụ mở lớp dạy chữ Hán cho ai cần học, bảo ban con cháu giữ trọn chữ trung trinh của nhà Nho.
Ừ thì Hán học đã tàn, vài năm nữa, sau khoa thi cuối cùng là chấm dứt khoa cử. Đau lòng này chưa nguôi thì sự biến khác xảy ra, càng đau lòng hơn. Vua cha bị đày xa nước, nay vua con bị đày theo. Cụ không làm được như hai cụ Phan, cụ Đặng, cụ Huỳnh… vì thế cụ thêm buồn và thức ngủ mà thở than, cụ vô nhà ra sân và thấy sự là sao Băng.
Người Tàu nhìn sao mà biết được Tam Lư Đại Phu Khuất Nguyên trầm mình trên sông Mịch La. Đó là thời mạt vận của vua nước Sở.
Đến thời nhà Hán, quân sư Gia Cát Lượng biết được đại tướng Quan Vân Trường bị chém đầu cũng nhờ đêm khuya xem sao.
Nước ta tiêu biểu là Trạng Trình, cũng là người am tường lý số, tiếng tăm vang đến Bắc Quốc.
“An lý học hữu Trình Truyền”.
Trạng còn biết được vận nước cả mấy trăm năm sau. Chúa Nguyễn Hoàng đã nghe lời Trạng dạy “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân”, mà khởi nghiệp xứ Đàng Trong sau này để mở mang bờ cõi.
Cụ cử lẩm bẩm: Điềm trời đã báo cho biết dân ta gặp nạn rồi. Hai chí sĩ sắp bị giặc Tây hãm hại mà nhơ nhuốc thay, bọn chúng mượn tay Triều đình, những vị quan đại thần muối mặt các đại đao, chặt đầu chí sĩ tuấn kiệt của dân tộc. Đau… đau, nhục… nhục.
Nước mắt cụ cử trào ra uất nghẹn, đúng là tuổi già hạt lệ như sương. Cụ vô nhà đến trước bàn thờ có ngọn đèn dầu vừa đủ sáng ấm áp trong ngôi nhà cổ năm gian, cụ lấy thẻ hương quí thắp đỏ trở ra sân nhìn hướng An Hoà vái hai vái và khấn rằng:
- Thưa hai hiền huynh, Hoè tôi đau lòng bái phục, có trời chứng giám cho. Sống đã biết nhau thì thác cũng sẽ gặp nhau. Hai huynh phù hộ cho con Hồng cháu Lạc sớm đánh đuổi sài lang đem lại độc lập cho dân tộc.


Ngồi trong ngục tối, chí sĩ ôn lại quãng đời ngoài 50 tuổi của mình từ khi nhận thức được sự tủi nhục của người dân mất nước.
“Dân mất nước trăm lần thống khổ
Nỗi đau này biết tỏ nơi đâu
Văn minh là thế giới nào
Mà ta chìm đắm dưới hào dã man
Nghĩ lắm lúc bầm gan tím ruột
Vạch trời cao mà tuốt gươm ra…”

Một chuỗi thăng trầm của con người tận trung với nước, tận hiếu với dân tuần tự diễn ra trong trí nhớ.
Năm 20 tuổi từ biệt gia hương với bầu máu hăm hở ra đi, ẩn thân chùa Linh kết giao nghĩa khí, nhằm xoay chuyển trời đất… nhưng sự nghiệp chưa thành. Âu đó cũng là trời đất thử dạ anh hùng.
Năm 27 tuổi, xây dựng căn cứ trù tính việc lâu dài với các chí sĩ đất võ học Bình Định. Một lần nữa sự nghiệp chưa thành, ta đâu nản chí mà rút bài học dấn thân.
Năm 33 tuổi nếm mùi ngục Phú Yên, sau cuộc khởi nghĩa thất bạicủa Võ tiên sinh. Mới hay nhà tù là trường học cho kẻ anh hùng, dám xả thân vì đại nghĩa.
Rồi năm 35 tuổi, lại ngồi tù ngục Bình Định, Quảng trong vụ án Dịch Trung Thiên.
Năm 43 tuổi bị đày Côn Đảo trong vụ sưu thuế Trung Kỳ, cùng với các nhà đại khoa bảng giúp dân kháng thuế. Ôi những ván cờ thế sự mà ta dự phần, thua trận này bày trận khác, chờ ngày đánh trận cuối cho dân tộc tự do. Và trận ấy cả 20 triệu đồng bào một lòng một dạ.
Vậy mà hôm nay 51 tuổi phải ra pháp trường và nhất định đầu rơi khỏi cổ…! Mới sống có nửa đời người, nhưng không sao. Đã là người đánh cờ thì thua được, được thua chưa phải là tất cả. Thua thì để lại bài học cho hậu thế tiếp nối, còn được thì xây dựng cơ đồ, dù sao thì cũng ở cái tuổi tri thiên mệnh. Chỉ thương nhà vua quá trẻ và tiếc cho đồng chí… đầy nhiệt huyết mới tròn tuổi 30. Nhưng mà thôi, anh hùng nói chi đến tuổi tác, Phù Đổng rồi Hoài Vương Hầu… đang còn niên thiếu cơ mà. Thái đệ cũng đã 30 hơn.
Ta sinh ra là để nếm vị tân khổ, đã mang hoài bão bận áo vải đội nón lá đòi quyền sống đuổi giặc thương dân.
Ngày ở ngoài Côn Đảo khi nghe tin từ đất liền: Ở lao Thừa Phủ ông bạn Châu tiên sinh tuyệt thực đến chết, ta đã thương tiếc mà thốt lên rằng:
“Ta có thiếu sống đâu
Dũ lý bảy năm chưa diễn trọn”.
Bỗng chí sĩ quên tất cả, quên mình đang trong cảnh tội tù, sảng khoái ca lên:
TA cùng TRỜI ĐẤT ba ngôi sánh
TRỜI ĐẤT in TA một chữ đồng
ĐẤT nứt TA ra TRỜI chuyển động
TA thay TRỜI mở ĐẤT mênh mông!

Ngồi trong ngục tối, chí sĩ như thấy ánh sáng màu hồng của dân tộc. Lịch sử từ năm 1862… 1865, năm Giáp Thân đến năm Bính Thìn (1916) là đã 50 năm. Máu của đồng bào của nhiều nhà yêu nước không lúc nào ngưng chảy. Với đà quật khởi này, thì 30 năm nữa thôi, có thể là năm Ất Dậu (1945), dân tộc này phá tan gông xiềng để có độc lập tự do.
Nhất định là như vậy, ha ha ha… ha ha ha. Nếu ta sống thì cũng đã 80 hơn mà có chết thì đã thấy con cháu Lạc Hồng đã thoát ách nô lệ. Ha… ha… ha… ha ha ha… Tiếng cười sảng khoái của một con người nắm được vận mệnh tươi sáng của dân tộc, làm tên lính hầu đưa cơm đang đến gần cửa ngục khiếp sợ sởn tóc gáy. Cái xích sắt rơi xuống nền gạch chói tai nơi ngục tối nghe mà ghê. Ánh sáng lùa vào, tên lính mở khoá thấy đôi mắt chí sĩ sáng rực như vì sao đêm đông, hắn run sợ như chó thấy cọp. Tên lính hầu đặt mâm cơm có be rượu đặc ân, y lễ phép khoanh tay.
- Mời ngài dùng cơm kẻo nguội… Hôm nay hình quan dành sự ưu ái cho ngài nên có be rượu ngon.
- Ha ha ha… có rượu ngon.
Chí sĩ nói như chế diễu:
- Ta biết sự biệt đãi này là… có chi mà giấu được ta… mà thôi…
Triều đình từ vua, quan lớn, quan bé cúi đầu theo lệnh tên khâm sứ, muối mặt chặt đầu, đày ải bao người con ưu tú của dân tộc. Nay đến lượt ta. Ta đã sẵn sàng ra pháp trường nay mai.
- Dạ dạ thưa ngài, kẻ tôi tớ hèn mọn làm sao mà biết chuyện đại sự của triều đình của hình quan.
- Nhưng anh cũng là người An Nam, con Hồng cháu Lạc như 20 triệu đồng bào chứ. Anh đang sống nhục trong cảnh nô lệ mất nước, có biết không?
- Dạ dạ… dạ.
Tên lính thụt lui ra cửa như sợ mình bị liên luỵ, mặt tái mét.
- Mà thôi, anh để be rượu cho ta, mâm cơm đặc ân này ta chẳng ăn. Nếu anh còn một chút lương tâm thì bưng ra cổng thành, cho người ăn xin… hãy thương lấy họ. Ta chỉ nhờ anh một việc thôi.
- Dạ bẩm ngài, nếu giúp được cho ngài mà con không liên luỵ thì xin ra sức.
- Xem đồng chí của ta buồng giam bên kia có gầy lắm không, thần sắc ra sao? Nhờ nhắn hộ rằng: Trần Cao Vân đã sẵn sàng chết cho 20 triệu đồng bào đang lầm than. Khi mà vua quan là trâu ngựa cho Tây thì dân lành làm sao mà thoát cảnh cơ hàn. Mai cho ta biết…
Người lính gạt nước mắt bưng mâm cơm, và tên lính coi tù khoá xích sắt. Phòng giam tối om như địa ngục.

Tại phía Tây Bắc kinh thành, pháp trường đã được chuẩn bị trong im lặng và kín như bưng. Theo lệnh tên đầu sỏ Tây ở Trung Kỳ, binh lính triều đứng gác dọc đường thiên lý, con đường dẫn đến pháp trường. Một đơn vị lính Lê dương dưới sự chỉ huy của một sĩ quan Pháp được điều từ đồn Mang Cá đến An Hoà. Đêm ấy trời không trăng mà lại sáng như dát bạc, đúng là một đêm có một không hai ở kinh thành Huế xưa nay. Trời sáng để thấy lòng người. Đao phủ Ngáo bận áo chẽn màu huyết bầm, quần dài trắng trúc bâu được túm ống cho gọn. Ngáo đã có tuổi, người xương xương như con chó già chưa rụng răng. Đầu Ngáo quấn khăn màu điều như tên vô lại, lại buộc ngang lưng dải lụa lục bình như một tên hề vô duyên.
Hơn cả tuần luyện tay dưới sự giám sát của viên quan hình ngục trên ngũ tuần có bộ mặt như thần chết dưới âm phủ. Trước và sau khi chém vào cái đầu người đẽo bằng gốc chuối sứ, giống y cái đầu thật, Ngáo được hai ly rượu màu mận chín có mùi máu tanh như máu người, thứ rượu máu làm cho đao phủ mất hết tính người mà không biết gớm tay với đồng loại.
Ngáo thắp hương khấn trời đất và lên xe đi trong đêm ra bãi chém. Xe Ngáo ngồi là xe đi giữa, phủ kín để chẳng ai thấy gì. Ba chiếc xe kéo lùi lũi chạy trong đêm như đi ăn trộm, rồi dừng lại cách đường thiên lý một đoạn đi vô đường làng. Đó là pháp trường An Hoà.
Ngáo nâng đại đao ngang mày quỳ lạy, chẳng biết Ngáo lạy ai giữa trời đất. Hai chén rượu máu đã làm cho Ngáo u u quên đi tất cả.
Hai tử tù đã bị trói có lẽ trước đó chẳng bao lâu, mắt bịt kín. Mặc dù hai chí sĩ yêu cầu để mắt cho được thấy đất trời trước khi rơi đầu.
Áo quần hai chí sĩ màu trắng như áo liệm, có lẽ hình quan đã cố ý cho mặc thế để chôn cất… Tiếng chiêng cất lên chù rù… chù rù… chù ù ù… như tiếng gọi hồn từ một nơi rất xa mà cũng rất gần, như dưới chân hai chí sĩ vọng lên. Bầu trời trắng, biến tất cả mọi vật đều trắng, và đương nhiên PHÁP TRƯỜNG TRẮNG đến độ ớn người, như thể nơi đây không phải là dương thế.
Lát chém thứ nhất, đầu chí sĩ Thái tiên sinh rơi xuống đất, máu phun đỏ như cái vòi kỳ lạ thành dòng. Bỗng vang lên sang sảng:
TA CÙNG TRỜI ĐẤT BA NGÔI SÁNH
TRỜI ĐẤT IN TA MỘT CHỮ ĐỒNG

TA THAY TRỜI…
Lưỡi đại đao đã cắt đứt lời ca của chí sĩ, nhưng lạ thay, dẫu tay bị trói, chí sĩ vẫn đưa ra đỡ được cái đầu của mình không cho rơi xuống đất, cho dù chỉ là tích tắc.
Đao phủ Ngáo khiếp đảm tru lên như chó, hắn quăng đại đao đỏ máu lăn lộn trên cỏ… khóc. Bầu trời An Hoà sầm tối một lúc rồi bừng sáng lạ thường. Trong cảnh đất trời ấy, có hai vì sao vụt lên từ đây bay vào Hải Vân mà cụ cử Hoè đã thấy cái đêm đầu chí sĩ rơi xuống đất.
Lời hậu thế:
Vào năm 1925, nghĩa là 9 năm sau vụ hành hình, khi cả nước đứng trước một vụ xử mới đang xẩy ra tại toà đại hình ở Hà Nội. Nhà chí sĩ họ Phan cũng là đồng chí của Thái Phiên và Trần Cao Vân. Nhân dân cả nước quyết không để cho đầu chí sĩ bị rơi xuống đất, nên đứng lên hành động và kết quả là cụ được tha và đưa về giam lỏng tại Huế.
Lợi dụng tình hình ở Hà Nội, một phụ nữ tuổi ngoài 40 đã đến pháp trường xưa. Nhờ sự giúp đỡ hết sức tận tâm và bí mật của bà con quanh vùng, hài cốt của hai chí sĩ đã được cất bốc và chuyển lên đồi thông yên tĩnh tại phía Tây thành Huế.
Hài cốt được an táng và mộ xây cất hết sức giản dị, nhưng cũng bí mật. Một tấm bia đá dựng trước mộ chí:
Trần Cao Vân, Thái Phiên chí sĩ chi mộ
(Lẽ đương nhiên chữ trên bia là chữ Hán).
Kẻ hậu bối được biết người phụ nữ làm việc ấy là bà Trương Thị Dương, một đồng chí của hai chí sĩ. Nghe đâu quê quán của bà ở làng Tân Điền huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị.
                        Huế, tháng 12 năm 2006
                                    N.L

(nguồn: TCSH số 229 - 03 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀI NAM

    Người ta vẫn xì xào tới tai tôi rằng, tôi là một con ngốc. Thì đã sao! Tôi không cảm thấy bị xúc phạm mà ngược lại nó đem đến cho tôi cảm giác được an toàn yên ổn. Ai lại đi ganh tị, đố kị với một con ngốc? Làm thế chẳng khác nào tự túm tóc nhấc mình khỏi mặt đất.

  • HOÀNG THU PHỐ

    1.
    “Khi ánh sáng một lần nữa soi chiếu, ta bỏ lại tàn lụi thế giới này”.(*)

  • QUÁCH THÁI DI

    Tôi đẩy nhẹ cửa bước vào một gian phòng khá lớn, cố gắng không gây ra tiếng động. Tôi ngồi xuống chiếc ghế bành đặt gần kệ sách rất cao, lắng nghe dòng suối âm thanh trong trẻo đang chảy ra từ cây đàn piano màu trắng.

  • VIỆT HÙNG

    Tosenli bước vào tiệm cho thuê đồ "Con Ngỗng Vàng". Người chủ tiệm thấy ông, theo thói quen, chẳng cần hỏi, đi thẳng đến nơi treo đồ.

  • VIỆT HÙNG

    Đêm tháng 6 của Hà Nội. Căn phòng 24 mét vuông như chật thêm. Giáo sư Sơn ngồi mơ màng nhả khói thuốc.

  • TẠ XUÂN HẢI

    Cầu Sòng là một nơi hoàn toàn vắng vẻ. Nếu có công chuyện thật sự cấp bách phải qua sông, người ta đi vòng xuống phía hạ nguồn khoảng hai cây số, ở đó có một chiếc cầu khác.

  • PHƯƠNG HÀ

    Tôi tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, đầu vẫn còn đau. Trước mắt tôi là màu trắng toát của bốn bức tường bệnh viện.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU
                  Truyện ngắn dự thi

    Kìa, lão đang đứng trước mắt chúng tôi đây, tay ngửa ra xin của bố thí, và đợi chờ một chút ân huệ nhỏ nhoi...


  • TRƯƠNG QUỐC TOÀN

    Lạ quá. Mùi hương thoang thoảng từ đâu theo gió đến đây. Một ngôi nhà nhỏ vách và mái đều từ lá tranh có sẵn trên núi.

  • HÀ KHÁNH LINH

    Thuở còn tiệm đế, đức Thái Tổ Cao Hoàng đế đã bôn ba tạo dựng cơ nghiệp - Vào sinh ra tử, nằm gai nếm mật nhiều phen.

  • TRƯƠNG CÔNG DŨNG

    I
    Những ngày đầu ở thôn Phước Quả tôi không "bắt rễ" vào được một gia đình nào cả. Trước khi phân công tôi về đây, Trần Quốc Nghĩa - đội trưởng đội công tác kiêm Chủ tịch Uỷ ban Quân quản xã - cho tôi biết sơ bộ tình hình của thôn.

  • NGUYÊN NGUYÊN

    Chúng tôi vẫn tiếp tục rảo bước, dọc đại lộ hoang vắng, vẻ như nàng vẫn chưa có dấu hiệu muốn dừng lại. Bởi trước đó nàng nói, khi nào tới gần quảng trường thì dừng lại, nhưng chúng tôi đã đi qua quảng trường cách đây năm phút rồi.

  • PHÁT DƯƠNG

    Giờ ai còn rảnh rỗi ngắm mặt trăng nữa? Người ta bị giá đồ ăn và những thứ lặt vặt bủa vây.


  • NGUYỄN TOÀN THẮNG

    Đinh Tú nhiều năm đèn sách siêng năng, nhưng không hiểu sao thi lần nào trượt lần ấy.

  • DƯƠNG GIAO LINH

    Con dâu nhanh nhảu ra đỡ chiếc làn trên tay bà:
    - Nay mẹ có mua như con bảo không ạ?

  • CÁT LÂM

    1.
    Cảm giác thức giấc phải đối mặt với lo sợ hoặc buồn phiền thật là khó chịu. Giấc mơ đêm qua không nhớ nổi mình mơ gì.

  • BẠCH LÊ QUANG

    1.
    Mấy năm về hưu, cõi người chộn rộn, xa xôi, giáo Nghĩa dặn lòng, thôi thì, thân thoái, về với chim chóc, cỏ cây. Tự tâm, ông nghĩ, có khi, muông thú, tiếng chim, hoa và lá lại có chỗ hơn người.

  • NGUYỄN THỊ DUYÊN SANH

    Mưa quất ràn rạt trên đầu. Mưa như xói cát vào mắt cay xè. Thanh nhoài mình ra cố nắm lấy hai bàn tay bé nhỏ mềm mại đang chới với đưa lên từ mặt nước. Con đò nhỏ mỏng manh chao đảo chực lật úp. Và mảng chớp lòa trước mắt kèm theo tiếng nổ khô khốc chụp xuống hất anh ngã nhào...


  • Hòa Vang - Luân Lâm - Dương Thành Vũ

  • PHẠM GIAI QUỲNH

    1.
    Đây là một nơi như thế, Viễn buông một câu không đầu không cuối khi xách hành lý của Khanh lên và dẫn cô vào trong nhà nghỉ tạm.