Phan Trung Thành - Dọc đường thơ sang kí ức sông

15:53 16/03/2009
INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

Sự dịch biến của vũ trụ và giữa cuộc đời tạo nỗi trống rỗng tận bề sâu tâm hồn thi sĩ. Là một trong vài loài hiếm hoi cảm nhận nỗi xao xuyến kia. Mọi nơi và mọi thời. Họ biết thế, nhưng buồn cứ buồn. Trần Tử Ngang, Apollinaire, Hoài Khanh,...
Có lẽ hình ảnh con sông gợi sự cảm nhận hơn cả về lẽ biến dịch, vô thường của cõi thế. Chảy trôi của con nước với đứng trơ trơ gỗ-đá, chậm-xiết-cạn kiệt của sông bên cạnh cái thường hằng chắc nịch của hai bờ. Nhưng đây là cảm nhận từ trầm tư về vĩnh cửu...
Hôm nay, hình ảnh con sông hiện ra với Phan Trung Thành đã khác, khác rất nhiều. Ám ảnh sông không là một ám ảnh siêu hình mà là hiện thực đầy cực hình từ/qua xô bồ của cuộc sống đô thị hiện đại:   
Cuốn theo nhịp người đi người về
trong gió bụi mờ xa chợt thức
đường cong với phố ba mặt

Con đường phố thị thời đại mới chạy đua với thời gian trong vòng xoay làm- tiêu-xài-vui-chơi- để chuẩn bị làm-rồi lại chơi tiếp:
bỏ cuộc vui thừa mứa những quầy bar vỏ chai nấm mồ
móng vuốt miệng lưỡi hộp đêm và khói
Để mở mắt:
nhìn mặt trời và ngắm gương mặt những đêm mất ngủ
Rồi sáng hôm sau lại thức dậy chợt thấy những dòng sông, không phải dòng sông quê hương thời ấu thơ để anh về úp mặt tìm cảm giác ấm áp thiết thân, mà là dòng sông - đường phố, u ám và ngầu đục:
Mưa đã thành sông nhiều ngày trên đường
Đó là loại “sông không dòng chảy không dòng trôi”. Nó còn tệ hơn cả sông chết: nó bóp nghẹt tất cả những gì thơ mộng còn lại trên trần đời.

Cuộc sống thiếu thiên nhiên của phố thị hiện đại đã được dự báo từ những năm đầu thế kỉ. Hối hả, xa lạ, trống rỗng, hờ hững... là tâm trạng chung. Những khuôn mặt vô hồn trôi từ góc phố này qua góc phố khác, phờ phạc. Những đàn ông và đàn bà đi song song, chéo nhau, hay cả dẫm đạp lên nhau, vội vã - cho kịp giờ vào xưởng, vào văn phòng, toà soạn, hotel, cao ốc... Bạt ngàn bảng quảng cáo nhấp nháy đèn màu mời gọi, không ai kịp nhìn. Những đường phố không cây, nếu có cũng ít ai kịp biết nó có mặt.

Tất cả trở thành xa lạ. Càng xa lạ hơn với chủng loại luôn được dự báo sắp kì tuyệt chủng: thi sĩ! Gã có đó, ngày qua ngày, từ quán cóc trôi qua quán cóc. Kí ức sông cuốn:
người đàn ông đi vào quán bia khi bắt đầu trôi trong
cơn mưa khác
Và:
...kí ức sông đưa gã dọc đường
thơ
Dọc đường thơ, gã biết vẫn còn có con sông khác, những con sông khác. Thế là thơ tiếp tục đưa gã lang thang đi “tìm nguồn sông khác” mơ hồ cuối tiềm thức ấy. Nguồn nào? Lại là một ảo tưởng mới chăng?. Để phụng sự cho phát triển của kĩ nghệ và thương mại, dòng sông bị giết chết khắp nơi. Tất cả mọi “nguồn” đều đã chết. Đây là “mùa tuyệt chủng của dòng sông”, Phan Trung Thành la lên! Sông Lu đã chết và sông Hương cũng đang nguy cơ chết.

Hơn ai hết, gã ý thức điều đó. Nhưng khi “tiếng gió quê hương mang hơi thở của dòng sâu” thổi vào hồn anh, anh tìm trở về. Quỳ gối trước con sông, anh thề thốt rằng:
Anh chưa phải xa sông ngày nào đêm nay
Đó gần như là sự tự đánh lừa, có lẽ. Sự tự đánh lừa ở đây vừa ngây thơ vừa nhuốm màu bi hài. Bởi, sự thơ ngây đã chết. Vài chục năm qua, văn chương hậu hiện đại đá văng sự ngây thơ cuối cùng vào vùng xoáy của ý thức về thực tại với con mắt mở lớn.
Là tin lành hay dữ, chúng ta không biết được. Chỉ biết rằng con người cần sống và hi vọng nên, ảo tưởng cần thiết có mặt. Thi sĩ là kẻ tạo dựng ảo tưởng đó. Ảo tưởng làm đẹp cuộc đời, đẹp như hành xứ bé nhỏ nhưng đầy thi tính và tình người với Tiếng vỗ cánh bầy sẻ ngô:
Chục sẻ ngô mươi ngàn, người mua phóng sinh
tầm mưa bắt đầu vọng
tháng Giêng hay tháng Bảy tiếng vỗ cánh bầy sẻ
bão thanh miệng lưỡi, cám nước nuôi tiếng kêu
tiếng kêu nuôi sự sống ngoài lồng
ta phóng sinh

người bán chim mời, khẽ dụi mắt sáng đường bay vỡ
những mẩu bánh mì vụn trong lồng rỗng mây trời bay qua...
bầy sẻ ngô bay cùng tiếng vỗ
phóng sinh tiếng khóc của mình

Dù trong cuộc xô bồ không gì hơn lộ bày sự vô độ đến vô phương cứu vãn của con người hôm nay, lắm lúc con người tưởng như không cần thơ, xua đuổi, chà đạp thơ, thơ vẫn cần thiết có mặt: Có mặt cho họ. Sẵn sàng thò cọng hành cứu vớt linh hồn họ ở cuối chặng của buồn chán và tuyệt vọng.
Ngày về nhìn sông ta ngồi thơ trên đá
“Ngồi thơ trên đá”, thi sĩ cúi xuống dòng sông quê hương: dòng sông tìm thấy lại. Như sông Lu tuổi thơ tôi từng lễ tẩy trần. Cho dù đã chục năm qua nó đã trở thành thứ mương tháo vô dụng, nhưng với tôi sông Lu và vĩnh cửu, nó nuôi sống hồn thơ tôi những tháng ngày tha hương:
... sông Lu ẩn mình trong
tôi khi tôi bỏ làng đi lang bạt
lần nữa sông Lu lại ra đời với
tôi ngày trở về. Đừng ai hỏi sông
Lu ở đâu, đất Phan Thiết sông Lu           
lớn dậy chảy ngang trời Sài Gòn bay
Tokyo, sông Lu tắt Baghad
hát cùng Euphrates ...

Khắp mọi nơi bước chân ta lang bạt tới, ta đều bắt gặp dòng sông. Nó mang tên gì ta không cần biết, miễn nó là dòng sông cho ta “ngồi thơ”. Dẫu nó chảy ở phương trời nào, ta cứ cho nó là con sông ta từng xuống tắm, nhảy giỡn: con sông-kí ức tuổi thơ đầy tràn kỉ niệm ngọt, để:
từ đáy sông trôi về con chép cỏ
vẫy đuổi vàng phố giao thương
Bao năm miệt mài dọc đường thơ đi tìm, Phan Trung Thành đã rời bỏ “những ngày vắng sông” để cuối cùng bắt gặp dòng sông quê hương. Sông ấy đã thôi làm “không dòng chảy... không dòng trôi” để thi sĩ phải “hoá mùn”. Nó cứ chảy, chảy mãi...
               Sài Gòn, 10.05.2005
                    I.R.S.R
(197/07-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)

  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.