Ở góc phố đường Bà Triệu (TP.Huế), hình ảnh một ông già 80 tuổi ngày ngày ngồi bên chiếc xích lô quay quắt ngóng khách đã trở nên quen thuộc với nhiều người. Ông như một nốt nhạc trầm giữa cuộc sống xô bồ. Nhưng ít ai biết rằng, ông là một cậu bé liên lạc cảm tử quân ngày nào. Sau hơn 30 năm cầm súng, ông đã góp công giữ lại hình hài của tổ quốc hôm nay.
Ông Trân bên bức ảnh chụp cùng đồng đội nhân kỷ niệm ngày thành lập Trung đoàn Trần Cao Vân 101.
Ngày ấy, giữa cuộc chiến không cân sức, với tài trí lém lỉnh, ông đã khiến biết bao tên giặc phải “hồn xiêu phách lạc”. Còn bây giờ, cảnh gà trống oằn mình nuôi hai người con điên dại đã đeo bám cuộc đời ông. Người chúng tôi muốn nói đến là ông Bùi Hữu Trân (SN 1934).
Những cuộc đột nhập “quỷ khóc thần sầu”
Trở về đứng dưới gốc cây ven đường Bà Triệu đạp xích lô, ông Bùi Hữu Trân đã là một người đàn ông có tuổi, bước đạp đã có phần nặng nhọc. Lúc nào ông cũng phải kè kè chiếc máy trợ thính bên mình. Sau một hồi hỉ hả, vẫn không “lọt tai” một chữ tôi nói, ông bất giác đứng dậy: “Thôi, chúng ta làm việc bằng…mảnh giấy!”. Ông Trân cười nhạt rồi vào tủ mang ra vài tờ lịch cũ chìa vào tay tôi bảo cứ ghi vào đó rồi ông sẽ trả lời. Qua trang giấy ấy, cuộc đời ông được tái hiện lại như những thước phim quay chậm. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đây cũng là ngày cậu bé Trừng (tức Trân, biệt danh của ông thời hoạt động cách mạng) gia nhập Trung đoàn Trần Cao Vân 101 (tiền thân của Chi đội Giải phóng quân Trần Cao Vân, thành lập ngày 5/9/1945). Với dáng người nhỏ nhắn, lém lỉnh, Trừng được Ban chỉ huy giao ngay nhiệm vụ đặc biệt là liên lạc cảm tử quân.
Trao đổi với chúng tôi, ông Trân nhớ lại cái ngày 01/01/1947. “Lúc ấy, anh Cẩn, Đại đội trưởng mặt trận B (thuộc Trung đoàn) gọi tôi lên giao nhiệm vụ đi điều tra xưởng sửa chữa ô tô của Pháp. Hai đêm liền, tôi lăn mình như khúc gỗ qua đường Hùng Vương và không bị một tên địch nào phát hiện. Đến nơi, tôi leo lên bờ tường và bò xung quanh nhà ở của chúng để tìm các lỗ châu mai mà chúng đặt hướng về phía ta. Sau đó, phải bí mật lắng nghe kế hoạch của chúng rồi quay về báo cáo”, ông Trân nhớ lại. Đêm 13/01/1947, được lệnh của chỉ huy, hai trung đội tự vệ và một trung đội tự vệ tiếp phòng đánh thẳng vào xưởng sửa chữa ô tô của Pháp. Quá bất ngờ, nhiều tên địch đã bị thương nặng. Số còn lại tóa hỏa bỏ chạy, vứt toàn bộ vũ khí và máy móc để thoát thân. Về đến chợ Cống, mọi người cùng nhau ăn mừng chiến thắng. Trong cuộc vui, các đồng chí không ngừng nhắc đến công lao dò thám tình hình địch của ông Trừng.
Tháng 2/1947, Pháp huy động một lực lượng lớn (cả Trung đoàn bộ binh, Trung đoàn thiết giáp và kiều dân tổng cộng hơn 1000 tên – ông Trừng nhớ lại) chiếm đóng Huế. Sau đó, chúng đánh rộng ra vùng ngoại ô thuộc các huyện Hương Thủy, Hương Trà, Phú Vang… Lúc bấy giờ, lực lượng quân ta ở mặt trận Trị – Thiên vẫn còn mỏng. Lương thực và đạn dược thiếu thốn trầm trọng. Trước sự yếu thế này, quân ta rất cẩn thận trong từng đường đi nước bước. Vì thế, hoạt động cảm tử quân thời gian này đóng vai trò vô cùng quan trọng. Ông Trừng, một trong những liên lạc cảm tử lại tiếp tục đảm nhiệm một trọng trách hết sức cao cả. Ông nhận nhiệm vụ đột nhập vào đồn Triều Sơn Tây (nay thuộc huyện Hương Trà) để nắm tình hình địch. Bằng tài trí khôn ngoan, ba ngày sau, ông quay về mang theo nội dung báo cáo về cách bố trí các phòng ban, kho chứa vũ khí…trong đồn địch.
Tháng 5/1947, sau khi đóng quân tại đồn Cổ Bi (nay thuộc huyện Hương Trà), hằng ngày, địch chèo xuồng qua sông Bồ vào làng Lại Bằng để chặt tre về dựng đồn. Sau nhiều lần theo dõi, ông Trừng cùng đồng đội phát hiện, mỗi lần vào làng chúng hay hãm hiếp một cô gái 17 tuổi. Chờ địch đi khỏi, cậu bé tìm đến nhà “dọa” đứa em trai của cô gái này: “Chị mày ngủ với Tây là theo Tây. Mà theo Tây là bán nước. Nếu mày lấy được khẩu súng trên người nó thì chị mày sẽ không phải lấy Tây. Chị sẽ ở lại với mày”. Cậu bé nghe thế, sợ mất chị, ngay trong đêm đó nó lẻn lấy được khẩu súng Côn của tên giặc rồi bỏ xuống giếng. Gặp lại ông, cậu bé khoe: “Em cũng có khẩu súng giống như anh.”. Ông Trừng bất ngờ, hỏi lại: “Làm sao mày có khẩu súng giống như tao được!”. Thằng bé nằng nặc: “Có. Em lấy trộm của thằng Tây”.
Đến chỗ chiếc giếng, ông Trừng lặn xuống giếng lấy lên được khẩu súng Côn thật. Có thêm súng, Trừng cùng đồng đội tổ chức phục kích tóm lính hai bên bờ sông. Tóa hỏa, địch vứt lại vũ khí rồi bơi loạn xạ thoát thân. “Sau trận đó, ta lấy thêm được năm khẩu súng, còn thằng Tây hãm hiếp cô gái thì bị cấp trên của nó kỷ luật cho về nước vì tội làm mất súng”, ông Trân vừa kể vừa cười.
Ông già đạp xích lô nuôi hai con tâm thần
Hòa bình lập lại, ông Trân cùng vợ là Nguyễn Thị Vân (SN 1937), một người con gái Tây Hồ, Từ Liêm (Hà Nội) và ba đứa con trở về Huế. Cuộc sống nghèo khó, cô con gái út phải đi làm con nuôi cho một gia đình ở Hà Đông (Hà Nội). Vợ ông sau thời gian lâm bệnh nặng đã mất năm 2004. Bà ra đi bỏ lại ông và hai người con mắc bệnh tâm thần. Ai đến nhà ông sẽ chứng kiến cảnh cửa nhà khóa trái. Bên trong, hai con người không thôi chỉ chỏ, cười nói vô hồn.
Hằng ngày, để nuôi sống hai đứa con ngây ngây, dại dại, ông Trân phải tất tả cùng chiếc xích lô oằn mình trên những chặng đường mưu sinh. Khi chúng tôi hỏi về thu nhập, ông bùi ngùi: “Nhiều khi ba ngày chẳng được một hào. Có ngày tôi kiếm vài chục đến 100 ngàn. Mình làm theo nhu cầu, người ta kêu đâu mình đi đó”. Đợi một hồi, vẫn không thấy khách, ông lục lọi dưới nệm xích lô mang ra bài thơ “Mạ của con”, ngâm nga vài câu: “Tuổi hai mươi con đi đánh giặc/ Hai mươi chín năm rồi xa cách Huế thân thương/ Buổi tối một mùa thu 1946/ Súng nổ khắp thành phố Huế/ Con nhập vào trung đoàn Trần Cao Vân/ Chiến đấu cho Tổ Quốc non sông/ Với một tấm lòng quyết tử/ Xin mạ tha thứ cho con…".
Nói chuyện với chúng tôi, ông Trân hoài nhớ xa xăm: “Bài thơ “Mạ của con” tôi làm tháng 4/1975. Khi ấy, nhiều nơi lần lượt giải phóng nhưng tôi vẫn chưa về thăm mẹ được. Tôi phải hoàn thành nốt nhiệm vụ cấp trên giao đến ngày toàn thắng. Nhớ mẹ, tôi viết bài thơ này gửi về nhà. Đó là một trong số cả trăm bài thơ mà ông từng sáng tác trong thời chiến lẫn thời bình. Ngày trước ông viết về đồng đội, cổ vũ tinh thần đánh giặc… Bây giờ, ông viết về gia đình, cuộc đời, xã hội…Đang nói chuyện với chúng tôi thì có khách đến nhờ chở hàng. Ông thoắt tay lắp ghép giàn sắt bốn phía thật chắc trên chiếc xích lô tuềnh toàng trước khi bỏ hàng lên xe. Chuyến hàng hôm nay ông nhận là hai khung sắt cỡ lớn. Cột buộc xong xuôi, ông lại phải hỉ hả một hồi với khách mới biết chính xác địa điểm đưa hàng đến.
Trên chuyến hàng cồng kềnh, nặng nề, giữa dòng người tấp nập, ông thương binh già vẫn cố vin theo từng vòng quay nằng nặng của chiếc xích lô cũ kỹ…
Theo Tiêu Sơn - Loan Nguyễn (Nguoiduatin.vn)
VÕ QUÊLTS: Hoạ sĩ Dương Đình Sang, sinh năm 1950 tại Huế, nguyên giảng viên Đại Học Nghệ thuật Huế, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Liên Hiệp VHNT TT.Huế, mất ngày 18 tháng 10 năm 2005.Dù trái tim hoạ sĩ đã ngừng đập nhưng tình yêu và khát vọng Cái Đẹp vẫn còn sáng mãi trong sự nghiệp sáng tạo của ông.
LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.
BÙI MINH ĐỨC...Vua Minh Mạng (1791-1841) lúc sinh thời đã có đến 43 bà phi tần nhưng người vợ đầu tiên của vua là bà Hồ Thị Hoa (1791-1807). Bà nầy là một người hiếu đức hiền thục và cũng là con của một công thần nên Bà đã được Vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn đưa vào cung Tiềm để hầu hạ cho Hoàng tử con mình...
TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.
DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTố Hữu không những là một nhà thơ mà còn là một lãnh tụ chính trị được cán bộ và chiến sĩ rất trọng vọng. Nhiều lúc tôi có cảm giác trong tình cảm cán bộ: sau Bác Hồ là đến “Anh Tố Hữu”. Nghe thơ không những người ta tìm cái hay của thơ mà còn tìm ý kiến chỉ đạo cách mạng của ông Tố Hữu trong thơ nữa.
NGUYỄN TỐNGNguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...
NGUYỄN THỤY KHAĐàn ngựa cuồng phong lồng về Hà Nội một đợt mưa rét lạnh. Gió thổi mạnh vào khuya khiến lòng người chợt trắc ẩn, thao thức. Có cảm giác như phía Phủ Doãn có một người đang đi trong "Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây, gió reo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên". Ngỡ như ai đó huýt gió giai điệu "Đêm đông" trên đường đêm nơi ngày nào Nguyễn Văn Thương bắt đầu cảm hứng cho tình ca nổi tiếng ấy. Một thoáng mong nhớ về người nhạc sĩ tài năng này.
NGÔ KHAPháo đài Láng đi vào lịch sử kháng chiến của thủ đô Hà Nội và của dân tộc ta như một sự tích anh hùng. Khai hỏa loạt đạn đầu tiên bắn vào thành Hà Nội, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống xâm lược.
LÂM QUANG MINHSau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.
NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 140 năm sinh cụ Phan Bội Châu 26/12/1867-26/12/2007) 1. Sau phiên toà đại hình mở tại Hà Nội ngày 23/11/1925 kết án khổ sai chung thân cụ Phan Bội Châu, trước sức ép của dư luận trong nước và quốc tế, toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh “ân xá” và đưa Cụ về “an trí” tại Huế.
TRƯƠNG THỊ CÚC * Như cá lội tung tăng trong nước, không hề biết mình bơi bằng cách nào, đôi lúc người Huế cũng sống hồn nhiên, không cảm nhận một cách rạch ròi về tính cách Huế, về yếu tính của một vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên và một đời gắn bó máu thịt.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.
BỬU NAMBửu Chỉ là một cái tên không xa lạ với những ai ở miền Nam trước 1975. Anh là người hầu như duy nhất vẽ tranh về đề tài chiến tranh và hoà bình.Tên tuổi và tranh bằng bút sắt, mực đen của anh đã sóng đôi cùng với những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn - một người con yêu của xứ Huế đã làm rạng rỡ vùng đất đã sinh ra mình.
TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG(Trích tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Ưng Bình Thúc Giạ Thị tổ chức tại Huế)
TRỊNH CÔNG SƠNTrong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi.
HỒ THẾ HÀLTS: Để ghi nhận những công lao to lớn của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều giải thưởng cao quý tặng cho những công trình văn học - nghệ thuật xuất sắc của nhiều thế hệ cầm bút: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.
THANH THẢOThơ Nguyễn Khoa Điềm say mê trong điềm tĩnh, khi nói những điều cao lớn, thơ ấy vẫn biết cúi nhìn những vật thấp nhỏ, những điều bình thường.
TRẦN THANH ĐẠMTrước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân cách Việt Nam ưu tú và vĩ đại của thế kỷ XX. Bài này thử nêu lên một vài khía cạnh của nhân cách đó.
LTS: Nhân lễ một trăm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Toà soạn nhận được bài viết của Cư sĩ Lê Quang Thái, giáo viên trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên Huế - cung cấp thêm nhiều tư liệu quí về Trịnh Công Sơn và gia đình, theo “Phổ hệ” Qui y Tam Bảo tại chùa Phổ Quang - Huế, nhằm giúp độc giả hiểu thêm về quãng đời niên thiếu của nhạc sĩ tài hoa - người con thân yêu của xứ Huế đã viên thành...Sông Hương trân trọng giới thiệu và xem đây như một nén hương lòng gửi tới hương hồn Nhạc sĩ.