Áo độc

09:14 11/04/2025
Tôi đã lả đi rồi, sốt ruột từ đêm qua, và ở trạng thái mất nước bắt đầu từ sáng nay.

"Chắc chết chưa?" "Giờ khắc cuối cùng ngắt cuộc đời đã điểm chưa?" - Tôi cứ tự lảm nhảm hỏi mình như thế, trong hôn mê, trong siêu tỉnh, bàng hoàng. Chỉ vì cơn rét đột ngột. Mẹ kiếp! cơn rét không dự báo. Lẩm nhẩm kiểm trong óc những vốn kiến thức fônclo đã được thụ giáo, bèn thấy láng máng một khái niệm rét: Rét Nàng Bân, ăn vào tháng 3 âm lịch này. Nhưng năm nay lại nhuận. Đâm ra cái thứ rét khốn nạn này nó lại được hành người ta, hành thập loại chúng sinh những hai lần. Và điều quan trọng là cái thân tôi cũng đang phiêu bồng lơ lửng ở tầng trệt lầm bụi trong cái cõi đặc sệt thập loại chúng sinh ấy. "Ôi chao!" - Tôi rên ư ử như một con chó ốm nửa mê, nửa tỉnh, rồi cong cổ gọi vóng lên, thê thảm - "Y sĩ trưởng trạm xá đâu? Hở trời!". Nhưng điều tôi gầm gọi ấy kỳ thực lại không phải là y sĩ, không phải là người sành nghề chữa bệnh, vì sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Mà là một cô gái đẹp, không ở nét mặt, không ở đôi mắt, có thể chỉ răng, và một khí chất quyết liệt dám hết mình, pha chút bướng bỉnh, trộn tí ti nhột nhát và ngốc nghếch. - "Y sĩ đâu rồi? Để tôi chết đây đấy à? hả? hả? Ôi! Rét quá. Mà sự tích Nàng Bân thì đẹp quá, chung thủy quá. Chỉ có chậm và vụng thôi. Chỉ có tấm áo rét xong vào mùa hè, thế thôi, chứ còn thì tuyệt vời lắm, hết mọi nhẽ. Úi giời ơi!... Y sĩ đâu! Cô y sĩ đâu! Bớ cô y sĩ!".

Một giọng trầm, khàn, khao khao, mệt nhọc, rán sức hợp với một thứ tính bản năng cất lên:

- Em đây. Làm sao mà anh rống lên như thế? Quẫy đập la hết như thế tổn sức lắm đó.

Thế là tôi im thít, nằm nem nép như đứa trẻ thấy hơi lòng mẹ, tay mẹ, vú mẹ. Thấy người ấm dần, tôi có được cảm giác: thừa nhận là mình đang sống. Liệu mà tử tế. Tôi yên lặng nữa, nữa. Bằng trách nhiệm chuyên môn, cô bắt mạch tôi, đo huyết áp, lấy thêm một túi chờm nước nóng nữa đặt áp vào phía ngực trái tôi. Rồi tự nhiên bắt đầu nói, một mạch, liên tục, lưu loát và đầy ngữ khí. Những lời cô như sau:

Cái thứ nhà văn các anh dơ dáng lắm, nhầm lẫn lắm, làm hại nhiều người lắm. Đó là, em đứng vào mặt nghề y của em mà nói như vậy. Anh có biết vì sao hôm nay; mải đến tận bây giờ em mới đến được với anh không? Thôi, đừng định trả lời, đừng định mấp máy. Cái thứ môi các anh tuy có đỏ đắn thật đấy, đầy đặn đấy, hôn thì thích, thì đã đấy, nhưng chẳng được ích lợi gì. Của đáng tội, cũng cảm thấy mình được là Người hơn một chút. Vậy thôi. Hừ! "Ai trên đời chẳng có miệng - Miệng thì có đôi môi - Miệng làm khổ thân tôi - Tôi thà câm cái miệng - Nói làm chi cho thêm chuyện - Nói bằng miệng mà hôn bằng môi". Đó, anh đã biết lời hát ấy chưa? Từ "Huyền thoại mẹ” của Trịnh Công Sơn mà ra đến miệng đến môi, vậy mới thánh chứ. Nào. bây giờ vào việc của em với anh nhé. Từ sáng sớm, khi người ta - những cán bộ kiểm lâm của khu rừng già đại ngàn này - khiêng anh vào, cả ba-lô, tăng, võng, cả giấy tờ tỏ ra chính xác: Anh là một người khùng, tuy là một nhà văn, đang đi bộ xuyên Việt, không phòng ngừa tử tế, chủ quan với rét tháng ba đột ngột. Nên bị cảm lạnh, may chưa là cảm nhập tâm, nằm như chết giữa đường, nghe nói, mắt vuốt cũng không nhắm. Người ta hoảng quá, tuy đều là người ở rừng, cáng anh cấp tốc đến em. Cho anh một mũi long não ngay thôi, rồi đành để anh nằm đó. Bởi vị bao tiếng gọi, gọi em. Y sĩ trưởng trạm xá lại nhận một mình trực ngày chủ nhật, ai dè, nó thế. Cái thân kiếp mình nó thế, biết làm sao? Có tới 5 bà cụ, tuổi từ 70 đến 120 cũng trúng phong, cảm lạnh đột ngột, được khiêng, cáng, võng, cõng, địu đẩy trên xuồng, trên mảng, trên thuyền thúng, đưa đến trạm xá em. Một cụ đã chết cóng trên võng, trước khi em được nhận. Và 27 cháu bé, từ sơ sinh đến 9 tuổi, tự nhiên ho hen, rũ rượi, tức thở...

Như thế thì cái con Bân được hàng nghìn năm những thứ nhà văn nhà thơ các anh ca ngợi, véo von, hết mình và hết lưỡi mình, nó là cái thứ con gì? Để em kể cho mà nghe.

Nhà ấy có tất cả 9 chị em. Tên lần lượt không ai mà nhớ nổi. Bởi vì, có nhiều người không hề đi vào lịch sử. Tầm thường chăng? Nhạt nhẽo chăng? Mãi gồng gánh chăng? Bấn, Bần, Bẩn, Bẫn, Bận... gì gì đó, đại để vậy. Chỉ biết cô út là Nàng Bân. Cả 9 chị em đều có chồng. Cả 9 người chồng đều phải tuân lệnh nhà vua, đi lên, cơm nắm, áo gói, để đắp, để vác, để đào, để quần quật đến thổ ra máu mình cho một trường thành ngoằn ngoèo như rắn, như rồng, như đẻn. Con đẻn to đến mức từ trên mặt trăng nhìn vọng về cũng thấy.

Mùa đông bình dị tuần tự đến theo cữ một, chạp. Tiếng gọi của cái rét, tiếng gọi của những người chồng đắp thành đang run rẩy, mồ hôi đọng thành những giọt băng đắng cay, vọng tới tai cả 9 người vợ nơi thôn ổ đìu hiu này. Cả 9 chị em ngồi quây tròn, đan áo. Những ngọn kim đan nhấp nhô như đỉnh sóng tới tấp, ào ạt. Sóng thương, sóng nhớ, sóng thủy chung. Nhưng mới được đến hết cái gấu áo, thì chỉ còn 8 người chị ngồi đan. Bân, riêng Bân xinh đẹp nõn nường nhất nhà đã đành, lại còn nhiều nết lạ. Một là: có đôi tay ngà ngọc, với những ngón thuôn dài tháp bút, làm gì cũng chóng mỏi, hay ngừng lại, thẩn thờ. Hai là: có đôi màng nhĩ thính nhậy lạ thường và đôi vành tai mỏng mảnh hay dỏng lên, lắng nghe. Đặc biệt khoái cảm, tê mê với những tiếng vo ve, tiếng cánh các loài trùng thân đốt: ong, bướm, chuồn chuồn... kiểu ấy. Cho nên, chẳng biết tự lúc nào, cô nàng đã lỏn ra giữa cánh đồng hoa chan cỏ lác sau làng, hình như lại bên một con sông nước trong leo lẻo, vừa như ngọc bích, vừa như mắt mèo nữa, cứ thế, cứ thế... Tám người chị miệt mài đan áo, lại dệt đắp thêm lần lót, trần vào đủ thứ ấm áp, từ kén tằm tới bông nõn, ấp cả lá cỏ thi phơi khô từ mùa trước... thành 8 tấm áo gởi lên phía Bắc, Hàn thành. Tám người chồng nhận được kịp thời, trước phút lả rụi đi vì rét. Họ buộc phải xé từng tấm, tróc từng sợi, lấy dây đai thắng ngựa kéo đá, xé tước ra, buộc dúm vào, cắn răng thít nút, lại quờ thêm dưới chân những mảnh bao bố đắp tử thi, sắp mủn nát mà ấm hơi cõi âm, buộc, tết, xoắn, thít thêm vào, đủ một manh áo quàng cho chồng nàng Bân - người em út cọc chèo, đồng hao của họ. Nhờ vậy, cả 9 anh em đều được cùng sống, đủ sức chờ đến mặt trời chói lói, nhễ nhại và hả hê mùa hè.

Bân thì vẫn đang óng ả giữa cánh đồng hoa chan với cỏ lác, áp con sông sau làng, vừa đi, vừa nhún nhún những bước chân, gót hông. Giá như chỉ có mình nó, thì nhún mãi rồi cũng mỏi, thì cũng đói, thì cũng phải về. Và nếu về thì chắc nó cũng sẽ tiếp tục đan áo, có thể chậm hơn tí chút, nhưng chỉ là một vài ngày. Và 8 chị nó đều là những người khoan dung, chắc sẽ chờ để cùng gửi đi một lượt.

Hại thay, ác thay, hay hạnh phúc thay, tốt lành thay - tùy từng tâm người -: Trời trông thấy Bân. Đấng bậc thượng đẳng ấy, hay lão tặc thiên ấy, kẻ bão hòa quyền phép, đã nhìn thấy một đàn bà. Lại nữa, một đàn bà đẹp nõn. Lại nữa, đang nhởn nhơ, nhún nhún. Trời cười híp mí. Đấy là lúc mà người thường dưới mặt đất nức nở và đẫm mồ hôi này thấy những nếp mây tự nhiên chúm lại. Và gã sà xuống. Bân thấy một vầng mây ngũ sắc ngời ngợi tự nhiên quẩn lấy chân mình, phía sau hơi đậm hơn, vần vũ nơi đôi chân trần của cô lộ đến khoeo, còn phía trước bồng bềnh bốn nếp váy cửa võng. Văng vẳng bên tai cô nghe tiếng một người đàn ông, có thể già lắm, da nhăn nheo, nếp mắt bũng nhũng, miệng nhệch nhạc cười, lại cũng có thể tiếng một trai tơ cuồn cuộn những gân đỏ, những mấu xanh, những cờ biển đốc đồng. Những tiếng ấy như sau:

- "Sao em đẹp thế? Và em có chồng hay chưa, ta không cần biết. Em có biết ai đang nói đấy không? Ta đây, Trời đây, Trời đây. Mênh mông trên cả đầu em, cả làng em, cả con sông và tất thảy những bông hoa kia nữa, cả nghìn ngọn núi kia và cả vầng mặt trời kia nữa. Ta ngỏ lời cùng em. Hãy đi cùng ta, vui cùng ta, ngủ với ta. Hãy tin ta đi. Nếu ngờ ngợ hãy thử nhún nhún chân lên, em sẽ bay lên ngay tức khắc".

Bân thoáng sợ, chỉ vì không nhìn thấy một mặt người, nhưng đầm đìa, tiếng thầm thì oai nghiêm đầy ma lực ấy là có thật, mây ngũ sắc dưới chân là có thật. Và nỗi hám hổ muốn bay cao, muốn chỉ một nhún chân mà được bay, kể cả nỗi rạo rực chờ phút được ngủ với Trời ở trong nó là có thật. Cho nên, cô nhún chân và tức khắc bay lên. Những chuyện mê ly sau đó, không nói, ai cũng đều có thể đoán được. Chỉ cần lưu ý một điều: Một ngày trên thứ đó, trên 9 tầng mây đó, bằng ít nhất cũng là một tháng dưới nơi trần gian khổ ải, đẫm mồ hôi và nước mắt này, cũng chan hòa tiếng cười chân thật tự do này. Ba ngày, 9 lần ngủ với Trời. Trời vốn khoẻ lắm. Nhưng cũng biết giải lao. Bân về được đến làng thì mùa đông đã trôi qua, lửa lựu đã bừng nở, dường như cháy lên ở mỗi đầu hè, ngõ xóm. Hè đến rồi. Và cùng với mặt trời nóng bỏng, những lời đàm tiếu làm rất bỏng không chỉ đôi má cô, mà cả con người cô, từng phân vuông da thịt, không chừa chỗ nào. Cô xấu hổ, cô thấy mình có tội. Nhưng bàn chân ra cánh đồng cỏ hoa nơi có những đám mây ngũ sắc sẵn sàng đón chờ nâng hứng lên đã quen thói mất rồi. Cô lại chạy ra. Trời đã ở đó sẵn, thấy Bân, cười vang. Thường nhân liền nghe những tiếng sấm bất thần khà khà khà rền dài. Và một lúc thì trời mưa, những giọt mưa thưa thớt, không đủ làm mát một giàn hoa dâm bụt. Ấy là Bân khóc khi đang tựa vào vai trời, đang ấp mặt mình trong nách trời. Sau đây là tiếng nức nở, lõm bõm thành lời của nó: "Trời ơi! Em đến với Ngài, lú mất việc đan áo rét cho chồng em. Cả làng, cây cây, hoa hoa, lá lá nữa, rủa nguyền em, móc máy em. Em khổ lắm. Em tội lắm. Sao đến cùng Ngài, ngủ cùng Ngài, phỉ nguyền, diễm phúc đến thế, lại phải chịu bấy chầy ê chề như vậy?".

- Nào, hãy vui lên, hãy cười lên, hãy ngủ cùng ta lần nữa. Em quên ư? Nóng, lạnh, sấm, chớp, sao rụng, núi lửa phun, biển dâng lên, những loài khủng long tuyệt diệt, chó đá thoắt há mồm, thoắt ngậm miệng... tất cả đều trong tay ta, từ tay ta, do ý chí mình ta. Hãy ngủ cùng ta đêm nay nữa, hết mình dâng hiến, yêu ta, ngày mai trời rét, khó gì. Và đây, sẵn tấm áo của Thiên đường dành cho em gửi cho thằng khốn khổ dây khốn kiếp đã cả gan đi trước ta trong thân thể em. Đó, cầm lấy cho chắc, đừng đánh rơi trong khi nở nụ cười ra, nở cánh tay ra, nở đôi chân ra, nở cả người em ra cho ta. Thế đấy! Tốt! Rất tốt!...

Bân đã y ý Trời.

Thế là ngày hôm sau, một đợt rét ác liệt ùa ập đến. Chàng trai chồng Bân đang cởi trần dưới mặt trời nóng bỏng đắp thành, nhễ nhại mồ hôi, bỗng khô cứng người vì rét. Cả 8 người anh cọc chèo cũng thế. Thì ngựa lưu tinh, trên lưng là người áo xanh, nẹp đỏ, đội mũ chóp, như bay đến, ném cho anh ta một tấm áo long lanh, thơm phức những mùi hương lạ. Vừa như hương địa lan cao quý, hương ngâu thanh khiết từ làng quê, từ ngôi nhà chồng vợ, lại có hương rơm, hương cỏ thi của lần giao hòa đầu tiên của đôi người tình: Anh và Bân. Bây giờ, đến lượt anh xé tấm áo thành 9 mảnh, chia đều cho 9 người anh. Cả 9 sống sót vượt qua được cái rét đột ngột, ập đến giữa tháng Ba.

Từ ấy, anh truyền tụng, cả 8 người anh nữa, truyền tụng mê lú về sự tuyệt vời chung thủy và đúng lúc, lại đặc biệt của Nàng Bân.

Sau đó, đến lượt các nhà văn, nhà thơ, nống Bân lên tót vời, truyền tụng, ngợi ca nức nở đến muôn đời.

Còn bây giờ là tháng 3 nhuận, hôm nay, một nhà văn đi bộ đột ngột cảm, bị xếp xó từ sáng sau một mũi long não. 5 bà già khênh đến trạm xá, 1 bà chết. 27 cháu bé nữa, 6 đứa chết.

Và một nữ y sĩ trạm trưởng mệt bã bời, bây giờ mới thấy rét, cái rét từ trong xương cốt thốc ra, kinh khủng.

- Cái áo Bân ấy, là "áo độc" - Tôi lầm bầm.

Em, cô y sĩ đầy cuồng nộ, uể oải, mà bây giờ bỗng dịu dàng, đằm thắm kỳ lạ, bảo tôi:

- Em lạnh lắm. Anh hãy là cái Áo cho em đi, giữa lúc này. Và em hiểu, em nói trước cho anh đủ can đảm nữa: Đó không phải là Áo Độc. Đây lại không phải là trên trời.

- Em ơi, Tôi cũng nghĩ như thế.

Tôi không lẩm bẩm nữa. Tôi điềm đạm và rành rọt nói. Và vươn vai, ngồi dậy...

Huế, chiều 16.5.1993
H.V
(TCSH59/01-1994)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • PHẠM PHƯƠNG Thằng bé đứng bên sông. Nó thấy màu đỏ ửng phía chân trời, nơi có hàng thùy dương và con đường đất ẩm. Đứa con gái nhà ai, trong làn khói lam chiều rơm đốt giữa mùa, mặc một bộ đồ cỏ úa, đang tha thẩn nhặt cỏ gà.

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH Khi về già người ta thường hoài niệm về tuổi trẻ và thích ngồi đợi những buổi sáng. Bởi vì đêm tối lạnh lẽo và âm u làm sao!

  • DẠ NGÂN Sau giấc ngủ trưa, hai chiếc gối kê cao trên đầu giường, tôi bắt đầu buổi làm việc tại nhà như vậy. Đó là sự nhân nhượng của toà báo với những biên tập viên cao niên và tôi, cũng như nhiều đồng lứa trong giới, tận hưởng đặc quyền đó bằng trách nhiệm tự giác thường trực.

  • NHẤT LÂM Tết êm đềm trôi hết tháng Giêng, mà bầu trời thung lũng Mu Lu còn khá lạnh. Chập tối, hơi đá từ dãy núi Ta Chan phả ra, sương buông màn màu sữa đục.

  • HUY PHƯƠNG Đã nghe thấy tiếng gió rì rào, như từng đợt sóng nhỏ tràn qua mái nhà. Trời trở rét… Chả trách mà tối hôm qua, cánh cửa kính cứ hết sập lại mở, rập rình mấy lần làm anh mất ngủ.

  • LÊ VĂN… Rồi cũng xong … Anh lơ xe nhảy lên cuối cùng, la lớn:- Tới đi chú Tám ơi!

  • QUỐC THÀNH - Xin người hoàn lại xiêm y cho ta - một thiếu nữ ngâm mình trong làn nước thơm khẩn khoản. - Mộng ba năm, bây giờ mới có, ta chỉ muốn nàng hứa một lời là được - chàng trai trẻ quay lưng về phía mặt hồ vòi vĩnh.

  • NGUYỄN THẾ TƯỜNG Sáng nay, ông Tổng biên tập gọi tôi tới bảo đi ngay dự lễ khánh thành một chiếc cầu. Tôi loáng quáng xách máy chạy ra xe, không kịp cả dặn vợ cắt cơm trưa.

  • L.T.S: Trần Duy Phiên, người thôn Thanh Thủy Chánh, huyện Hương Điền, Bình Trị Thiên, là một trong những cây bút truyện ngắn chủ chốt của chóm “Việt” - nhóm sáng tác trẻ trong phong trào đấu tranh chống Mỹ - ngụy xuất phát ở Huế trước đây.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUNgôi nhà lợp phi-brô xi-măng rộng chừng ba chục thước vuông, nằm sát cổng ra vào xí nghiệp dệt, biệt lập ngoài khu sản xuất, núp dưới tán lá cây bàng, được xây từ ngày xí nghiệp xảy ra các vụ mất cắp vật tư.

  • LÊ CÔNG DOANHChuyến đò dừng lại ở bến cuối cùng khi mặt trời vừa khuất sau rặng tre bên kia sông. Hiếu nhảy lên bờ và bước đi trong cảm giác chòng chành bởi gần trọn một ngày phải ngồi bó chân trong khoang đò chật.

  • L.T.S: Tác giả Hoàng Nguyệt Xứ tên thật là Hoàng Trọng Định, từng in truyện và thơ trên Sông Hương và nhiều tạp chí văn nghệ khác. Tác phẩm của anh để lại dấu ấn trong dòng chảy văn học của Huế với những truyện ngắn đậm tính triết lý, văn phong ám gợi sâu xa.Truyện dưới đây được Sông Hương dàn trang lúc anh còn sống... trân trọng gửi tới bạn đọc; cũng là nén tâm nhang xin chia buồn cùng người thân của anh.

  • TRẦN THÙY MAINếu cuộc đời được hình dung như một con đường thỉnh thoảng lại băng qua ngã tư, ngã ba hay rẽ ngoặt thì trong đời tôi có hai khúc quanh lớn nhất.

  • THÙY ANHồi nhỏ, tôi có cái tật làm nớt. Hở một chút là nước mắt tuôn ra giọt ngắn giọt dài. Anh chị xúm lại chọc: “Lêu lêu, mu khóc móc kh… ruồi bu kiến đậu…”, nhưng mẹ thì không, chỉ an ủi dỗ dành.

  • TRẦN HỮU LỤCKhi từ biệt làng nổi trên sông, ông Ngự tưởng mình quên được chiếc bóng vật vờ trên sông nước, quên bốn mươi năm gắn bó với những vạn đò. Ông Ngự chỉ mang theo đứa con gái duy nhất và cái máy bơm nước hiệu Yama của Nhật Bản đến vùng đất mới.

  • NGUYỄN QUANG LẬPQuá nửa đời người anh chị mới gặp nhau. Âu đó cũng là chuyện thường tình. Sau hai mươi mốt phát đại bác vang trời báo tin ngày toàn thắng, có hàng ngàn cặp vợ chồng cách biệt hàng chục năm đã tìm lại nhau.

  • PHẠM NGỌC TÚYMột buổi chiều như bao buổi chiều khác, Kim ngồi ở bàn giấy với trang viết đang chi chít chữ. Tiếng chuông điện thoại kêu vang dòn dã vào một thời điểm không thích hợp; thầm mong người nào gọi lộn máy Kim uể oải nhấc ống nghe lên.

  • BẠCH LÊ QUANG(Người đàn bà gối giấc ngủ trên cánh tay của biển - Thơ LHL)

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGLão Hinh lồng lộng như một con chó già bị mắc bẫy. “Mày cút khỏi nhà tau. Nhà tau không chứa chấp đứa con gái hư hỏng như mày…”. Miệng chửi, tiện tay lão vứt túi xách của Hằng ra đường. Chiếc túi nhỏ đã sứt quai, màu bạc thếch rơi tọt xuống miệng cống.