CÁT LÂM
Bình đẳng giới, nữ quyền, những vấn đề tưởng như mới mẻ ở nước ta nhưng thực chất vấn đề này đã được luận bàn từ những năm đầu của thế kỷ XX.
Ảnh: internet
Những tư tưởng, quan điểm về nữ quyền được thể hiện trên sách báo đương thời đã được Lại Nguyên Ân và Nguyễn Kim Hiền sưu tầm và biên soạn trong cuốn Dư luận nữ quyền tại Huế (1926-1929) trên sách báo đương thời. Đây là một trong những cuốn sách nằm trong tủ sách Phụ nữ tùng thư (tủ sách Giới và Phát triển) của Nxb. Phụ Nữ Việt Nam công bố các công trình về vấn đề phụ nữ, hướng tới các nhận thức và thực hành quyền phụ nữ, cũng như đấu tranh cho nữ quyền, vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam và phát triển bền vững của đất nước.
Những quan điểm nữ quyền tại Huế
Năm 1926, trong khi nhật báo, những trang tin tức chưa thịnh hành thì Nữ công học hội ở Huế được thành lập, cùng với đó là những dư luận về nữ quyền được phát biểu tại Hội nằm trong các trường ở Huế. Những quan điểm về nữ quyền được các chí sĩ yêu nước như cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Phan Bội Châu, Đạm Phương nữ sử phát biểu.
Theo đó, phụ nữ cần được đối xử ngang hàng với nam giới, phải được tôn trọng và được thực hiện các quyền bình đẳng với nam giới, từ lời ăn tiếng nói trong sinh hoạt cho tới việc học hành, sinh hoạt trong các hội nhóm và vươn mình, đồng hành cùng sự phát triển của xã hội.
Để làm rõ vấn đề này, trong bài diễn thuyết tại trường Đồng Khánh ở Huế, cụ Phan Bội Châu đã so sánh về cái nhìn đối với phụ nữ ở một số nước từ phương Tây tới phương Đông: “Tôi hằng ngày vì chị em mà trộm nghĩ thầm lo, tấm lòng tôi có khi đứt đôi đoạn, giọt lệ tôi có khi nhỏ đôi hàng. Khi tôi còn ở đất nước nhà, tôi những nghĩ ngược nghĩ xuôi muốn suy cho ra cái cớ vì sao như thế. Nhưng tôi chưa xét được rõ ràng. Đến khi tôi đi ra ngoại quốc, tôi thấy như nước Nhật Bản, Hoa Kỳ, nước Đức, nước Anh cho đến nước Trung Hoa, nước nào cũng có trường học cho con gái. Trường học gái có lẽ nhiều hơn trường học trai, danh giá các nữ học sinh so với nam học sinh cũng không chút gì thua kém...”.
Thông qua đó, người phụ nữ được nhìn nhận một cách trực diện từ những phẩm chất cao quý như đức hy sinh cho tới khả năng tự chủ, gồng gánh cuộc sống không thua kém đấng mày râu. Hơn thế, phụ nữ chính là những con người góp phần quan trọng cho sự phát triển của xã hội mà theo Đạm Phương nữ sử: “... một cái xã hội tốt hay là xấu là do tại gia đình tốt hay xấu, mà gia đình tốt hay xấu là do sự giáo dục của mỗi gia đình đối với mỗi cá nhơn mà tạo ra, đàn bà vẫn có một phần trách nhiệm trong cuộc tạo nhân kết quả ấy. Vì vậy mà gây dựng một cái gia đình tốt không gì bằng xây dựng một nền đạo đức luân lý cho phụ nữ thật hoàn toàn.”
Ngoài ra, các bài phát biểu đều nhằm khích lệ tinh thần người phụ nữ bỏ qua sự rụt rè, sợ hãi trước kia mà dấn thân vào đời sống mới cởi mở hơn, cổ vũ họ sống bằng lý trí, quan điểm của chính mình, nói lên tiếng nói của chính mình. Đưa ra các phân tích lý lẽ về thời cuộc, khoa học kỹ thuật, sự tiếp thu văn hóa phương Tây ảnh hưởng tới xã hội ra sao, bản thân người phụ nữ thế nào. Rồi rằng văn hóa phương Đông có nhiều điểm đã không còn phù hợp nữa. Nghĩa vụ của người phụ nữ là không thể ngồi im đợi thời đại xoay vần mà họ cần tham gia vào cuộc xoay vần của thời đại. Họ được tự do làm chủ cuộc đời mình, chịu trách nhiệm về quyết định mình đưa ra mà không phụ thuộc vào ai.
Những quan điểm ấy đã phá vỡ đi những suy nghĩ cũ mòn rằng phụ nữ phải chịu đựng phục tùng chồng con, ở nhà làm việc nhà, v.v.
Quan niệm nữ quyền trên báo Tiếng Dân (1927-1929)
Trước tình hình đất nước còn nhiều rối ren, báo Tiếng Dân xuất hiện với vai trò cập nhật tình hình chính trị trong nước lẫn quốc tế. Đây cũng là tờ báo cập nhật tình hình của cụ Phan Bội Châu khi bị Pháp giam lỏng ở Huế.
Các bài viết về nữ quyền thường được đăng trong mục “Phụ nữ diễn đàn”, “Độc giả luận bàn”. Một số tin tức liên quan tới phụ nữ được đăng trong mục “Việc trong nước”.
Liên quan tới vấn đề nữ quyền, không thể không kể đến những cái tên như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Đào Duy Anh, Đạm Phương nữ sử, Hoàng Khuê Bích, những người có công không nhỏ trong việc duy trì và phát triển cũng như lan tỏa tờ báo Tiếng Dân.
Ở các mục, các bài viết đã đi thẳng vào những vấn đề cụ thể đưa ra phương hướng nhằm cải lương, khẳng định vị trí của người phụ nữ. Và điều ấy được thể hiện rõ nét từ nhan đề của bài viết như: “Chị em ta nên có phụ nữ tạp chí”, “Chị em chốn thôn quê nên đọc báo và xem sách”, “Địa vị phụ nữ trong xã hội ngày nay”, “Phụ nữ đối với hòa bình”, “Đòi nữ quyền thế nào là chính đáng”, “Hiện tượng và tiền đồ của nữ giới nước ta”, “Đàn bà ta có đi xe đạp được không?”, “Chữ trinh”, “Phụ nữ có nên giải phóng không”, “Đàn bà Việt Nam có nên cúp tóc không?’, “Phụ nữ ta có nên sợ những lời mỉa mai không?”, “Chị em ta bây giờ đã nên hoàn toàn tự do kết hôn chưa?”, “Đàn bà An Nam có nên bỏ hẳn tục nhuộm răng không?”…
Không chỉ có các bài phát biểu, báo chí, thời gian này ở Huế cũng có cuốn sách nói về nữ quyền ở các nước là Phụ nữ vận động, do Dã Lan nữ sĩ (Đào Duy Anh) biên dịch. Cuốn sách giới thiệu các trào lưu lớn về phụ nữ ở một số nước như Anh, Pháp, Mỹ… Rồi việc phụ nữ tham chính ở Đức, Ý, Thụy Sĩ, Áo, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Trung Hoa, Nam Phi, Ấn Độ… Phụ nữ với xã hội, một phụ lục của sách Xã hội do Quan Hải Tùng thư xuất bản.
Những quan điểm trên báo Tiếng Dân nói riêng và dư luận trên sách báo về nữ quyền được đưa ra tại Huế đầu thế kỷ XX nói chung, vẫn rất tân tiến và có tính ứng dụng cao cho tới cả ngày nay.
C.L
(TCSH411/05-2023)
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).