Nỗi đau còn đó

16:27 01/06/2023

NGUYỄN QUANG HÀ

Trong kháng chiến chống Mỹ, huyện Quảng Điền ở mãi dưới sâu, phải mượn địa bàn của xã Phong Sơn huyện Phong Điền làm chiến khu.

Ảnh: internet

Cả huyện ủy, ủy ban, huyện đội, trạm xá, bưu điện Quảng Điền đều nằm xây quanh chân núi 673. Và Phong Điền cho Quảng Điền mượn luôn cả làng Đồng Lâm làm địa bàn. Đồng Lâm mua gạo mua cơm cho Quảng Điền, che giấu cho cán bộ Quảng Điền, cho con em mình thoát ly cùng Quảng Điền đánh giặc. Chỉ riêng việc “nhượng địa” suốt mấy chục năm ấy, Đồng Lâm đã xứng đáng là một đơn vị anh hùng.

Đêm đêm cán bộ Quảng Điền ra cửa rừng, tắt qua Ồ Ồ, băng qua xã Phong Sơn, tới làng Đồng Lâm. Ở đây nghe cơ sở báo tin tình hình hoạt động của địch trong ngày, từ đó hoạch định kế hoạch cho một đêm hoạt động. Từ Đồng Lâm băng qua quốc lộ, vượt trảng cát về Triều Dương, Vĩnh Nậy, xuống Quảng Thái, Quảng Lợi, Sịa. Một cánh vào Hiền Lương ngủ lại Hiền Lương một ngày, đêm sau về tít mãi Quảng Thọ, Ninh-Hòa-Đại.

Thời ấy dân chính hay quân sự đều trang phục như nhau, hầu như tất cả đều mặc quân phục. Đầu đội mũ tai bèo. Súng khoác trên vai.

Mỗi khi họp hành, đại hội, hay báo cáo thường kỳ, anh em lại lục đục từ vùng sâu lên rừng. Trên lưng người nào cũng gạo, muối lặc lè, tiếp tế lương thực cho chiến khu.

Đêm đêm, chừng bốn giờ sáng địch ở Tứ Hạ bắn pháo lên cửa rừng Phong Sơn, hòng “cả cái” lực lượng ta từ dưới sâu lên. Vì vậy anh chị em từ đồng bằng qua Đồng Lâm lấy gạo muối xong, lên Đồi Thông dừng lại. Gọi là đồi thông, nhưng lúc ấy cả đồi chỉ có ba bốn cây thông thôi. Người nào người nấy trải ni-lông trên cỏ, lấy gùi làm gối, ngả lưng. Có lúc trai gái nằm túm tụm với nhau, chuyện trò không to, thì thầm thôi nhưng rất rôm rả. Nhất là những đêm trăng thanh, gió mát, không có địch, Đồi Thông vui như hội. Cứ nằm đó đợi cho đến khi pháo địch bắn xong, tất cả lục tục dậy, thu vén gọn gàng, xóa dấu vết, rồi nhắm cửa rừng đi tới. Thường thường đến cửa rừng, nơi trạm giao liên đóng quân, trời đã tờ mờ sáng. Ngồi tựa lưng gùi gạo, nghỉ lấy sức, chờ trời sáng hẳn, luồn trong bóng cây rừng, vượt dốc về chiến khu.

Nói thì dễ như vậy. Song con đường từ chiến khu về sâu, từ sâu lên chiến khu là con đường máu lửa. Có lần tôi với Tân vừa chia tay nhau ở chiến khu chiều nay, sáng mai đã nghe tin Tân bị phục kích chết, địch đem phơi xác ngoài đường quốc lộ. Tôi chỉ ở chung một hầm với Hiệp, và Do ở Hiền Lương, hai anh vượt đường về Ninh-Hòa-Đại, chỉ chưa đầy một tuần, cả Hiệp và Do ra đi mà không bao giờ trở lại. Các anh bị phục kích dọc đường. Hai người chết chỉ cách nhau mấy hôm. Tôi chỉ lên rừng ít bữa, khi quay lại Hiền Lương thì cả hai người bạn thân của tôi là Phúc và Cạnh đã hy sinh. Hai nấm mồ chôn hai nơi, cả hai đều chưa xanh cỏ... Sự hy sinh như vậy diễn ra từng ngày.

Tôi nhớ hôm ra họp với chi đoàn thanh niên trạm giao liên, anh chị em hát hò rất vui vẻ. Có một tiết mục rất đặc sắc của Trần Thị Thu. Thu xin hát bài “qua đường quốc lộ”. Tôi ngồi chờ một tiếng hát cất lên. Nhưng Thu cứ đứng im, mắt đảo qua đảo lại như chớp. Một phút rồi hai phút qua đi. Bỗng dậy lên tiếng vỗ tay đột ngột. Tôi bỗng hiểu ra, qua đường quốc lộ là phải ngậm tăm như thế, và mắt quan sát định tình cũng phải nhanh nhẹn, khẩn trương như thế. Không là chiến sĩ giao liên, không cùng cảnh, thật khó có thể được giao cảm kỳ diệu của một vở kịch câm như thế.

Đã đành con đường huyết mạch ấy không bao giờ ngừng. Nhưng có một đêm kinh hoàng, tôi không bao giờ quên được. Lúc này đây nhắc đến cái đêm kinh hoàng ấy tôi thấy toàn khung cảnh ấy hiện lên trước mắt.

Đó là đêm 31 - 12 - 1971. Lẽ ra tôi cũng dính vào đêm này. Nhưng nể bạn bè, tôi đã lên rừng vào đêm 30.

Kế hoạch của huyện ủy là, nhân cuối năm dương lịch, lần lượt gọi anh em dưới vùng sâu về, gặp gỡ nhau đầu năm, ăn tết mồng một, mồng hai họp triển khai tình hình nhiệm vụ mới. Nên tất cả lần lượt lên rừng.

Đêm 31- 12 là đêm rét. Các ngả về gặp nhau ở Đồng Lâm. Bà con đã mua sắm cho anh em nếp, gà, đậu, sữa và một vài nhu yếu phẩm khác cho ngày tết chiến khu thêm phần rôm rả. Nghĩ cuộc vui ngày mai nên ai cũng cố gắng gửi thêm một chút hàng.

Cuối năm mưa dài, đường đi đầy nước, lép nhép, bước trượt, bước trơn. Đến đồi thông, dừng lại nghỉ. Cũng đúng quy luật, 4 giờ sáng pháo Tứ Hạ bắn vào cửa rừng xong, anh chị em lại hối hả lên đường. Ai cũng mừng ngày mai sẽ gặp nhau đông đủ ở huyện, tha hồ tâm tình sau những tháng dài xa cách.

Suốt buổi chiều bà con Đồng Lâm quan sát, không thấy lính lên phục kích. Đường mới mưa, nước lõm bõm, chủ quan, anh em bám sát nhau đi.

Đến gần mương nước giữa đồng, bỗng mìn clây-mo từ hai bên đường đồng loạt nổ vào. Clây-mo là mìn định hướng của địch, có sức sát thương lớn. Tiếng mìn clây-mo vừa dứt thì lựu đạn mỏ vịt từ mương nước quăng lên như mưa, thi nhau nổ. Chớp lửa lòe lên chấp chới.

Suốt nửa giờ đồng hồ tiếng nổ mới ngừng hẳn.

Sáng hôm sau bọn địch ra chỗ phục kích, gạo nước tung tóe. 17 người cả nam, cả nữ hy sinh, chúng lật ngửa từng người ra phơi xác giữa đồng. Thương nhất là các cô gái. Cả 5 cô đều thanh tân, chưa cô nào biết thế nào là bàn tay nóng hổi của một chàng trai. Bọn lính Mỹ và ngụy lột trần các cô, không còn một mảnh vải trên người. Dã man hơn, chúng lấy cây nhọn chọc vào từng âm hộ của các cô, và để nguyên đó.

Liền hai đêm hôm sau chúng cho người lên phục kích. Và cài lựu đạn dưới lưng từng xác người kia để nếu anh em mình ra lấy xác, không cẩn thận, hy sinh tiếp là chuyện thường.

Đêm 31-12 ấy đoàn cán bộ ở sâu lên 21 người. 17 người hy sinh. Chỉ có 4 người đi sau, ở ngoài tầm của clây-mo, nên chạy thoát được. Rúc bờ ngủ bụi suốt một ngày, đêm hôm sau mới lên được chiến khu.

Phơi xác chiến sĩ ta giữa đồng xong, lính Mỹ ngụy quay trở về làng Đồng Lâm bắt tất cả từ đứa trẻ lên ba cho tới ông già tóc bạc ra tập trung. Chúng chỉ hỏi một câu:

- Đứa nào tiếp tế cho cộng sản?

Hỏi và không cần trả lời. Cứ gậy trên tay, chúng nhảy bổ vào những người dân tay không, đánh tới tấp, đánh cho tới khi mỏi rã rời, không cầm nổi cây gậy nữa mới thôi.

Có một tên lính Mỹ rất thâm hiểm. Nó cởi một chiếc gùi. Thấy trong đó có một nắm xôi bọc lá chuối. Nó cầm mảnh lá chuối ấy đi khắp làng Đồng Lâm, đến gốc từng cây chuối, xem cái lá nào đã bị xé để gói xôi. Sau mấy tiếng đồng hồ nó đã tìm được cây chuối cần tìm. Giở mảnh lá chuối gói xôi kia, đo đúng vào lá chuối bị xé. Lấy đó làm nhân chứng, coi chủ nhân vườn chuối là kẻ tiếp tay cho cộng sản. Lại thêm một phen nhả đòn.

Nắng trên trời như đổ lửa. Xác người nửa dầm trong nước, nửa phơi ra giữa nắng trời. Phải tới đêm thứ ba địch không phục kích nữa anh em ta mới ra lấy được xác đồng đội. Bạn bè thịt đang còn thơm trong ký ức đã bắt đầu mủn ra. 17 người được bốc lên võng, đưa vào cửa rừng. Tắm rửa cho đồng đội xong, lấy quần áo sạch mặc cho từng người. Rồi khâm liệm, và lấy ni lông làm áo quan, mai táng cho từng đồng đội của mình.

Chiến khu Quảng Điền năm ấy đã sống những ngày nặng nề, đầy đau thương.

Mảnh đất Phong Quảng không rộng này biết bao oán hờn. Bọn Mỹ ngụy đã đan rọ thả người trên sông Bồ, đã đào hầm chôn sống tập thể ở Cổ Bi đã tàn sát đẫm máu ở Mỹ Xuyên. Mới đây, lại phát hiện bên cạnh nhà lao cầm cố cũ của ngụy hàng trăm đầu lâu trong một hầm... và cuối 1971 lại thêm một vụ Đồi Thông, Ồ Ồ.

Chỉ tính riêng hai xã Phong Sơn và Quảng Thái đã có tới 1250 liệt sĩ.

Biết bao máu xương đã đổ cho hôm nay. Vâng. “Máu người không phải nước lã”. Kẻ nào phụ máu xương ấy chắc mặt không phải mặt người.

N.Q.H
(TCSH101/07-1997)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN BẢO ĐỊNH

    Thương nhớ chú Tư Sâm.
    Phải nói ngay rằng, hồi trai trẻ, tôi không thích giới văn chương, chỉ thích giới văn nghệ. Chẳng hiểu vì sao?

  • BÙI KIM CHI

    Thời thiếu nữ của tôi gắn liền với Thành nội. Nơi này tôi đã sinh ra và lớn lên. Tôi yêu Thành nội. Thành nội đã đi vào cuộc đời tôi với nhiều sắc màu.

  • THANH TÙNG

    Kinh đô Huế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, bầu trời u ám của xã hội phong kiến Việt Nam lúc mãn chiều xế bóng đã phát ra tín hiệu của một vì sao NGUYỄN TẤT THÀNH.

  • LÊ HUY MẬU

    Anh Điềm, bấy giờ còn là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa TW, nhưng đã sắp nghỉ. Anh ra thăm Côn Đảo. Trong đoàn tháp tùng anh ra Côn Đảo của Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu có tôi.

  • PHẠM HỮU THU

    1.
    Cuối năm 1989, tôi cùng Trần Phá Nhạc ghé 47 C Duy Tân, Quận 3 - TP. HCM thăm anh Trịnh Công Sơn.

  • LGT: Hiện không nhiều tài liệu miêu tả miêu tả về đời sống, sinh hoạt văn hóa, xã hội của Huế vào thập niên 30 - 40 của thế kỷ trước. Bản dịch dưới đây là trích đoạn từ cuốn nhật kí Adieu Saigon, Au revoir Hanoi (Chào Hà Nội, tạm biệt Sài Gòn - Nhật ký kì nghỉ năm 1943) của Claudie Beaucarnot.

  • DÃ LAN NGUYỄN ĐỨC DỤ
                           Hồi Ký

    Ba mươi tháng tư. Tôi đang dùng bữa tối cùng gia đình thì chợt nghe tivi thông báo ông Thanh Nghị chết.

  • PHƯỚC VĨNH

    Hình ảnh Hồ Chủ tịch là nguồn cảm hứng sáng tạo đối với nhiều nghệ sĩ tạo hình Việt Nam.

  • BỬU Ý

    Đinh Cường đã vĩnh biệt tất cả chúng ta! Một nghệ sĩ trong cái ý nghĩa toàn diện, cao đẹp nhất, một nghệ sĩ làm lan tỏa nghệ thuật ra chung quanh mình cho gia đình, cho bạn bè, cho cả đời sống, khiến anh trở thành tâm điểm cho những cuộc gặp mặt, những buổi hội hè.

  • PHAN NGỌC MINH

    1. Năm 2004, tôi triển lãm tranh tại Foyer du Vietnam - Paris, do ông Võ Văn Thận, là nhà thơ kiêm phụ trách quán bảo trợ. Tại đây tôi đã gặp gỡ được nhiều bạn bè Việt Pháp, trong không khí thân thiện ấm áp… 

  • PHAN NGỌC MINH

    1. Năm 2004, tôi triển lãm tranh tại Foyer du Vietnam - Paris, do ông Võ Văn Thận, là nhà thơ kiêm phụ trách quán bảo trợ. Tại đây tôi đã gặp gỡ được nhiều bạn bè Việt Pháp, trong không khí thân thiện ấm áp…

  • VÕ SƠN TRUNG

    Trong gần một thế kỷ qua, bạn đọc Việt Nam đã tiếp cận khá nhiều tác phẩm của đại thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore, trong đó có hàng chục tập thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch nói, tiểu luận, và thậm chí cả hồi ký của thi hào…

  • Lần đầu nói chuyện trực tiếp với họa sĩ Đinh Cường tại xe cà phê Tôn trước nhà thờ Tôn Nhân Phủ ở Thành Nội, tôi: “Thưa thầy!” Anh khoát tay: “Úi dà, bày đặt. Chỗ bạn bè anh em với nhau cả, thầy bà chi nghe đỗ mệt!”

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Thật vui mừng và xúc động khi cầm trên tay tập sách Rừng hát của cố nhạc sĩ Trương Minh Phương do gia đình tặng. Tuyển tập dày 1.328 trang, chia làm 4 phần, tập hợp những sáng tác, nghiên cứu văn học nghệ thuật trong cuộc đời của nhạc sĩ.

  • VÕ TRIỀU SƠN

    Ngay sau Lễ Quốc khánh 2/9/1945 ra mắt nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, công cuộc kiến thiết đất nước được bắt đầu, trong đó có văn hóa.

  • VÕ TRIỀU SƠN

    Ngay sau Lễ Quốc khánh 2/9/1945 ra mắt nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, công cuộc kiến thiết đất nước được bắt đầu, trong đó có văn hóa. Những ngày tháng đầu tiên của các hoạt động văn hóa nghệ thuật dưới chính thể Việt Nam mới diễn ra thật sôi nổi. Sau đây là lược thuật một số hoạt động trong mùa đông 1945, cách đây tròn 70 năm.

  • LỮ QUỲNH

    "Vì tôi là người Huế và đã một thời tuổi trẻ nặng nợ với sông Hương suốt những mùa hè nóng bức ngủ đò nên tôi nhìn sông Hương luôn luôn với đôi mắt của người bạn.

  • Sáng ngày 27-11-2015 tôi  đến nghĩa trang Père Lachaise để tiễn anh đến nơi yên nghỉ cuối cùng, sau khi hỏa táng, anh sẽ nằm trong ngôi mộ gia đình, đây cũng là nơi nhạc sĩ Chopin yên giấc ngàn thu nhưng trái tim thì trở về quê hương Ba Lan. Nguyễn Thiên Đạo cũng thế anh nằm ở Paris nhưng trái tim và tâm hồn anh từ lúc sống đến lúc chết luôn luôn hướng về Việt Nam.

  • HOÀI MỤC

    Vừa giải phóng xong ba tôi đưa cả gia đình từ thành phố về quê. Cuộc sống vất vả nhưng quá nhiều cái mới lạ nên đầu óc con nít của tôi khi mô cũng thấy háo hức.

  • NGUYỄN KHẮC VIỆN
                    Trích hồi ký

    - 75 rồi đấy, ông ơi! Viết hồi ký đi. Chuối chín cây rụng lúc nào không biết đấy!